Trở lại vụ án ông Huỳnh Hiếu Bi: Ủy ban Tư pháp Quốc hội cần kiến nghị minh oan cho người vô tội
Pháp luật - Bạn đọc 13/06/2020 17:35
Những nội dung chính vụ án
Cựu Bí thư Huyện ủy Huỳnh Hiếu Bi có thiếu sót trong điều hành nhưng vì công việc chung, không tư túi một đồng nào. Nhưng ông Bi vẫn bị các cơ quan tố tụng ở tỉnh Trà Vinh khởi tố, truy tố, xét xử 3 năm tù giam về tội tham ô và làm trái, bởi Bản án số 381/2009/HSPT ngày 27/5/2009, Tòa phúc thẩm tại TP Hồ Chí Minh khẳng định: Ông Huỳnh Hiếu Bi cố ý làm trái khoản tiền 79.502.000 đồng là có căn cứ”; và “hành vi nhận tiền của cơ quan đi công tác khi về không trả lại của ông Huỳnh Hiếu Bi bị Tòa án cấp Sơ thẩm và cấp Phúc thẩm kết án về tội “tham ô” là đúng”.Tuy nhiên …
Ông Huỳnh Hiếu Bi không “cố ý làm trái”. Năm 2005, Văn phòng HĐND và UBND huyện Cầu Ngang được phân bổ kinh phí 1.937.386.821 đồng; và đã được quyết toán qua Kho bạc Nhà nước đủ 1.937.386.821 đồng (trong đó có 79.502.000 đồng nêu trên). Các khoản mục chi đã được Chủ tài khoản là quyết định duyệt chi, quyết toán; HĐND huyện Cầu Ngang ra Nghị quyết phê chuẩn thu, chi. Như vậy, ngân sách Nhà nước không bị thất thoát, không có hậu quả xảy ra. Do vậy, kết luận ông Bi cố ý làm trái về khoản tiền nói trên là không có cơ sở.
Và không thể coi ông Huỳnh Hiếu Bi“tham ô” tài sản của mình. Bởi, ông Phạm Văn Lượm kí tạm ứng tại thủ quỹ của Văn phòng UBND huyện Cầu Ngang 7.950.000 đồng tiền 2 tháng lương của ông Bi. Theo nguyên tắc về quản lí tài chính, thì đối tượng mà cơ quan yêu cầu hoàn trả tiền tạm ứng là ông Lượm, không phải là ông Bi. Tại sao không buộc ông Lượm hoàn trả tiền tạm ứng? Thực tế ông Bi chỉ nhận 500 đô la Mỹ của ông Lượm, không 500 đô la Mỹ của cơ quan, nhưng cơ quan tố tụng coi ông Bi không trả tiền tạm ứng, để quy kết cho ông Bi tham ô là không có cơ sở.
“Bản đề nghị về việc thu hồi tiền những cán bộ có vi phạm” số 181/VKSP1 ngày 23/10/2008 của Viện KSND tỉnh Trà Vinh và “Biên bản hỏi cung bị can” ngày 22/8/2007 (Bút lục số 1760) |
Hơn nữa, 7.950.000 đồng trên, là tiền tạm ứng tiền lương của ông Bi (là tài sản hợp pháp của ông Bi), đương nhiên ông Bi là người được nhận và có quyền quản lí, sử dụng. Thế nhưng, cơ quan tố tụng kết luận ông Bi tham ô số tiền trên, chẳng khác gì kết tội ông Bi tham ô đối với tài sản của mình? Đây là tình tiết mới của vụ án, cần được xem xét, kết luận!
Xin nói rõ thêm: Số tiền trên, bị cơ quan điều tra kết luận là tiền ông Bi làm trái, Viện KSND tỉnh chuyển sang là ông Bi tham ô. Nhưng không có chứng cứ nào chứng minh ông Bi có nhận số tiền này của cơ quan. Trong khi tiền mua điện thoại là tiền của cá nhân ông Bi. Việc ông Bi bỏ tiền túi ra mua điện thoại, thì không thể coi là ông Bi tham ô.
Cần truy cứu trách nhiệm hành vi có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm!
Một,không truy cứu kẻ trộm!
Thanh tra tỉnh Trà Vinh thanh tra toàn diện huyện Cầu Ngang thời gian ông Huỳnh Hiếu Bi làm Chủ tịch UBND huyện (1999-2005). Trong thời gian thanh tra có một “sự cố”, phòng làm việc UBND huyện có “kẻ trộm” cạy cửa. Lập tức Công an tỉnh Trà Vinh thành lập Ban chuyên án, do Giám đốc Công an tỉnh Trà Vinh làm Trưởng ban. Sau thời gian tìm tòi, điều tra, cuối cùng những người “giỏi nhất thế giới” này không tìm được “kẻ trộm”.Không khởi tố vụ án, nhưng ông Bi biết thực sự Công an đã tìm được “thủ phạm vào lục soát hồ sơ, thao tác dựng hiện trường giả để gây áp lực cho công tác thanh tra cho rằng, ông Bi và người thân tẩu thoát tài liệu. Ông Bi khiếu nại về việc có dấu hiệu bao che của Giám đốc Công an tỉnh. Nhưng thay vì lí giải vì sao không khởi tố “kẻ trộm”, thì tháng 1/2008, Công an tỉnh Trà Vinh quyết định khởi tố vụ án, đối với “chủ nhà” - “bị can” Huỳnh Hiếu Bi về tội “tham ô…” và “cố ý làm trái..”
Hai, không truy cứu hành vi“hợp thức hóa” số tiền tạm ứng, để chiếm dụng tiền tạm ứng.
Theo hồ sơ, có “Biên bản hỏi cung bị can” ngày 22/8/2007 (Bút lục số 1760), bị can Trần Văn Nghĩa (cựu Phó Chánh Văn phòng UBND huyện Cầu Ngang), thể hiện việc ông Lê Thành Thái có lấy 5 triệu đồng của cơ quan đi Thái Lan mà ông Thái chiếm đoạt luôn, bằng việc đã sử dụng hóa đơn xin để “hợp thức hóa tiền ứng”. Rõ ràng đây là hành vi thể hiện tham ô của ông Thái. Điều này còn được thể hiện tại “Bản đề nghị về việc thu hồi tiền những cán bộ có vi phạm” số 181/VKSP1 ngày 23/10/2008 của Viện KSND tỉnh Trà Vinh, ghi rõ: “Đề nghị thu hồi phần tiền gây thiệt hại cho nhà nước của các cá nhân có hành vi vi phạm như bản đề nghị của cơ quan điều tra đã nêu cụ thể như sau: …Lê Thành Thái, nguyên Phó Chủ tịch UBND huyện Cầu Ngang, nay là Chủ tịch UBND huyện Cầu Ngang số tiền: Ứng đi công tác Thái Lan: 5 triệu đồng; tạm ứng công tác số tiền 6.538.000đồng”. Như vậy, ông Thái đã cố ý chiếm dụng tiền tạm ứng của Nhà nước, rồi “hợp thức hóa” số tiền tạm ứng là rõ ràng. Nhưng việc làm này của ông Thái không được Viện Kiểm sát “chuyển tham ô”. Tình tiết này là dấu hiệu bỏ lọt tội phạm!
Rõ ràng, kẻ trộm và người cố ý chiếm dụng tiền tạm ứng của Nhà nước, rồi “hợp thức hóa” số tiền tạm ứng, đã không bị xem xét, khởi tố! Ngược lại “chủ nhà” – ông Bi đã bị kết tội “Tham ô” và “Làm trái” không có cơ sở. Thế nhưng những người tham gia giải quyết vụ án, gây ra những hậu quả này, nay vẫn bình yên vô sự.
Dư luận đặt vấn đề cần truy cứu trách nhiệm những hành vi có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm trên đây.
Thay lời kết!
Viện KSND Tối cao ra Kháng nghị số 11/QĐVKSNDTC/V3 ngày 6/5/2010, khẳng định: “Do việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án phiến diện, không đầy đủ và có vi phạm tố tụng hình sự, nên chưa đủ căn cứ để khẳng định Huỳnh Hiếu Bi có phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lí kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” hay không. Quyết định kháng nghị bản án hình sự Bản án phúc thẩm số 381/2009/HSPT ngày 27/5/2009 của Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại TP Hồ Chí Minh. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao xem xét theo thủ tục Giám đốc thẩm, hủy bản án hình sự phúc thẩm và bản án hình sự sơ thẩm số 58/2008/HSST ngày 26/12/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh, để điều tra lại theo quy định của pháp luật”.
Tạp chí Người cao tuổi trân trọng kiến nghị Ủy ban Tư pháp Quốc hội xem xét để minh oan cho ông Huỳnh Hiếu Bi; cần kiến nghị giải quyết lại toàn bộ vụ án theo tinh thần nội dung Kháng nghị số 11/QĐVKSNDTC/V3 ngày 6/5/2010 của Viện KSND Tối cao; đồng thời truy cứu trách nhiệm đối với hành vi có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm trong vụ án trên!