Cửa biển Nhật Lệ - “lối ra” của thơ ca và lịch sử
Văn hóa - Thể thao 25/10/2018 09:31
Kể từ triều đại nhà Lý trở đi, cửa biển Nhật Lệ là nơi ghi dấu rất nhiều lần đội quân triều đình nghỉ chân, chỉnh đốn binh mã cũng như liên tục đụng độ với quân quấy nhiễu. Năm 1044, vua Lý Thái Tông cho tập kết binh thuyền ở cửa biển Nhật Lệ trước khi ra lệnh đánh dẹp quân Chiêm đang gây hấn. Năm 1069, một trong những cột mốc đánh dấu sự hình thành tỉnh Quảng Bình, vua Lý Thánh Tông cùng với tướng tiên phong Lý Thường Kiệt đã chỉ huy thủy quân vượt qua cửa Nhật Lệ, tiến vào kinh đô Chiêm Thành, bắt sống vua Chế Cũ. Từ đây, ba châu Bố Chính, Địa Lý (Quảng Bình) và Ma Linh (bắc Quảng Trị) của nước Chiêm nhập vào Đại Việt.
Lịch sử đụng độ giữa Đại Việt và Chiêm Thành vẫn chưa dừng lại. Năm 1375, vua Trần Duệ Tông sai Hồ Quý Ly tập hợp quân lính và điều động thêm dân chúng từ Nghệ An vào Quảng Bình nhằm vận chuyển, tập kết quân lương đến cửa Nhật Lệ. Tại đây, lực lượng thủy quân nhà Trần đã tập dượt trong vòng một tháng để chuẩn bị chinh phạt Chiêm Thành.
Năm 1470, trước lúc xuất quân tấn công Chiêm Thành, ở nơi nước biếc kì vĩ này, vua Lê Thánh Tông đã hứng khởi đề thơ. Đây là một bài thơ hay viết về biển đảo thời phong kiến: “Nhật Lệ hải tấn” (Cửa biển Nhật Lệ): Liễu khóa lên thuyền độ vĩ lư/ Phiêu phiêu chính phái trú Hà Cừ/ Sa hàn địa lão tà dương ngạn/ Sương lẫm phong phi túc thảo khư/ Long ngự cửa truyền tiên lí tích/ Kính phong do kí hậu Trần thư/ Chỉ kim thiệu bá tuần Nam Quốc/ Nhật tích phong cương vạn lí dư. Dịch nghĩa: Trời sáng thuyền vua tới cửa sông/ Hà Cừ phất phới đóng quân hồng/ Đất cằn cát lạnh tà soi bến/ Sương gió gò hoang ngọn cỏ hồng/ Vua ngự còn thuyền tích sự kí/ Quân hùng mãi chép chuyện thời Trần/ Tuần nam nay chỉ theo người trước/ Mở rộng biên cương vạn dặm hồng.
Thành phố Đồng Hới bên cửa biển Nhật Lệ
Ở phía Đông có lũy Động Cát bắt đầu từ cửa Nhật Lệ chạy dọc dãi cát ven biển đề phòng quân đối phương tấn công từ biển vào. Ở phía Nam là các lũy Trường Dục, Đầu Mâu, Động Hải… với lũy cao hào sâu, bố phòng chặt chẽ cộng thêm dây xích sắt giăng ngang và cọc nhọn đóng ngay cửa biển. Nhờ đó, trong gần 50 năm giao tranh ác liệt, đặc biệt là trận đánh lớn nhất năm 1672 nhưng nhà Trịnh vẫn không khuất phục được họ Nguyễn đành trở về bắc sông Gianh yên bề phân định.
Trong kháng chiến chống Pháp, Đồng Hới là cửa ngõ phía bắc của kinh thành Huế và cửa Nhật Lệ trở thành yết hầu phục vụ kế sách tác chiến lâu dài. Thực dân Pháp đã 2 lần tấn công để đổ bộ lên Đồng Hới (1885, 1947) nhưng bị quân và dân ta dũng cảm đánh trả. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, các bên kí và thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ (8/1954) buộc quân viễn chinh Pháp phải lũ lượt bước xuống tàu há mồm đậu ở cửa Nhật Lệ để rút về nước.
Trong những năm đánh Mỹ, Quảng Bình là tuyến đầu của miền Bắc, cửa biển Nhật Lệ trở thành chốt chặn ác liệt khi bị Mỹ, Ngụy điên cuồng đánh phá nhằm ngăn những chuyến hàng chi viện xuất bến ở cảng Nhật Lệ để đưa vào Nam. Đặc biệt hơn, nơi đầu sóng ngọn gió này vinh dự được đón Bác Hồ nghỉ chân dịp Người vào thăm Quảng Bình và Vĩnh Linh ngày 16/6/1957.
Đại thi hào Nguyễn Du, trong 4 năm (1809 - 1913) làm quan cai bạ (chức quan văn trông coi việc hộ, thời phong kiến) ở Quảng Bình đã rất nhiều lần cảm tác trước vẻ đẹp của biển, cát Nhật Lệ: Nhật Lệ triều đầu dũng hải môn/ Thanh Vị trọc Kinh đồng bất túc/ Hoàn hoa lục trúc lưỡng vong ngôn. Dịch nghĩa: Nước sông cửa Lệ biển vỗ mình/ Vị Kinh trong đục dòng chảy miết/ Vàng hoa, xanh trúc đều lặng thinh. Hay khi nói về tâm trạng Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du viết: Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? mà cho đến hôm nay giới nghiên cứu văn học vẫn đang nghiêng về đáp án nơi góc thành cổ Đồng Hới, sát cửa biển Nhật Lệ, chốn ông tá túc lúc làm quan là không gian, địa điểm thuyết phục nhất để chấp bút nên hai câu Kiều thơ mộng bậc nhất này.
Đó cũng là lời minh chứng rõ nét nhất về khung cảnh nên thơ trữ tình của nắng vàng, cát trắng, biển xanh Nhật Lệ từ ngàn xưa đã làm đắm say biết bao tâm hồn thi sĩ. Cùng với đó là những tháng năm lịch sử kiên cường về một thời đấu tranh, một thời hòa bình, dựng xây của mảnh đất và con người nơi đôi bờ Nhật Lệ.
Nguyễn Tiến Dũng