Chốn cũ, người xưa...
Văn hóa - Thể thao 31/01/2019 08:06
Những năm ấy, gần như vòm trời trên đầu chúng ta lúc nào cũng xanh đến nóng ruột. Người Mỹ thích đặt tên cho các chiến dịch, hồi đánh dọc Đường 5 họ gọi là Sấm Rền, còn đánh Hà Nội thì gọi là Biển Lửa. Đấy đâu phải là những từ văn vẻ, nó là một sự thật. Mục đích cuối cùng của những cuộc tiến công ấy là nhằm triệt phá tận gốc ý chí thống nhất của một dân tộc, bắt phải chịu khuất phục bằng vũ lực.
Hà Nội nói nhiều trên các loa phóng thanh báo động; nói gay gắt bằng máy bay, tên lửa, các cỡ súng phòng không ở mọi hướng. Nhưng dưới các mái nhà, trong các căn hầm chật hẹp, Hà Nội rất kiệm lời…
Cũng vào những tháng năm sôi sục đó, bộ đội ta nảy ra sáng kiến đưa súng máy lên đỉnh cầu Long Biên. Đúng là đối mặt với quân thù. Ở bên đường Cổ Ngư mé Hồ Tây cũng thấy có đặt một trận địa nổi. Đó là những khẩu 37 li phục ở đấy để đón lõng máy bay tầm thấp.
Trong chùa Trấn Quốc lúc đó có bếp anh nuôi. Vị sư trụ trì tuổi đã cao lắm, đôi mắt già nua nhuốm màu sương khói. Cụ thường ngồi tiếp chuyện tôi bên thềm nhà trai, trong tay là một chiếc chày gỗ và một chiếc cối gỗ nho nhỏ. Hôm thì thấy cụ giã vài lát gừng, hôm thì nắm lá tía tô, kinh giới. Một lần tôi hỏi: “Thưa cụ, sao trong chùa lại có treo tấm đại tự với hai chữ “Trấn Bắc”. Cụ thủng thẳng hỏi lại: “Anh cũng có chữ Hán?”. “Cháu chỉ lõm bõm vậy thôi, thuở bé ở nhà quê đến trường học Quốc ngữ, về nhà vẫn phải học thêm Hán tự, cháu là một thứ đồ bùn cụ ạ!”.
Nhà sư già gạt chiếc cối gỗ sang bên, quay vào nhà trong mang ấm chén ra thềm pha trà, mời tôi cùng uống. Cụ thèm nói chuyện. Giọng cụ nghe thều thào, lúc xa, lúc gần. Nhiều lúc đang nói cụ bỗng ngưng lại nghĩ vẩn vơ đâu đâu. Tôi đoán rằng những lúc đó cụ đã quên bẵng là có tôi đang ngồi hầu chuyện.
… Đấy là lần vua Minh Mạng ngự giá ra Bắc Hà, ngài có tới thăm chùa này và đã hạ thánh chỉ cho đổi tên chùa thành Trấn Bắc. Đã có Huế là kinh đô rồi thì ngoài này cái gì cũng phải xuống cấp. Cũng như khi Gia Long lên ngôi thì Thăng Long được gọi là Hà Nội. Vùng đất có thế rồng chầu hổ phục nằm ở giữa trời đất, vùng đất có cái thế rồng bay, bỗng chốc chỉ còn là một cái tên nôm na tầm thường, “đất trong sông”. Thế nên Bà Huyện Thanh Quan mới có thơ “Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Thành cũ lâu đài bóng tịch dương”.
Anh có tưởng tượng nổi khi bóng chiều phủ xuống bờ thành ngoài cửa Tây, cửa Bắc kia nó khiến ta nao lòng đến thế nào không? Năm Tây lấy thành Hà Nội lần đầu, hình như là năm 1873, cụ Nguyễn Tri Phương bị trúng đạn ở bụng trong lúc đốc quân kháng cự vào cuối trận đánh… Thấy thế ta đã núng lắm rồi, cụ bèn gọi người con trai dìu cụ lên bờ thành để nhìn thành phố một lần nữa. Cụ là tướng giữ thành, phải chết ở thành. Tây lấy được thành nhưng tự liệu chưa giữ nổi bèn rút ra ngoài.
Phải mười năm sau đó, là năm Giáp Tý 1844 chúng mới quay lại lấy thành lần thứ hai. Lần này thì ở hẳn, thiết lập nhà nước thực dân. Với dân mình thì đó là quãng thời gian mang nhiều tâm sự. Quan giữ thành là cụ Hoàng Diệu. Lúc mất thành là vào buổi chiều, cụ một mình bước vào Võ miếu thắp hương khấn vái nhận lỗi trước tổ tiên rồi tuẫn tiết bằng một dải lụa bạch.
Trước hai cụ ít lâu, còn có một quan tổng đốc nhân cách cũng lớn lắm, đó là cụ Trần Bích San. Cái chết của cụ chỉ có con cháu trong nhà mới rõ thực hư. Rất nhiều năm sau, người ta vẫn đồn thầm rằng, cụ đã nuốt đầy giấy bản vào ruột mà chết. Năm ấy cụ vừa tròn ba mươi bảy tuổi…
Các cụ đều đã giữ trọn danh tiết, để lại tiếng thơm muôn đời. Phải gánh vác việc nước vào lúc nước suy là cầm chắc gặp nhiều nông nỗi cay cực, cay cực không sao thổ lộ được cùng ai.
Hiện nay, trước cổng Gò Đống Đa vẫn lưu giữ đôi câu đối của cụ Nghè Liên. Câu đối ấy là: Thử thành quách thử giang san, bách chiến phong trần dư xích địa/ Vi nhật tinh vi hà nhạc, thập niên tâm sự cộng thanh thiên. Dịch: Thành quách giang sơn trăm trận đánh gian lao như thu được thu cả về khoảnh đất nhỏ này. Tâm sự mười năm ấy tưởng vậy mà cũng đủ để sống mãi cùng non sông, trời đất trăng sao. Lấy cớ trùng tu Trung liệt miếu tưởng niệm công lao hiển hách của Quang Trung, nhưng kì thực các cụ còn muốn gửi vào đấy những tâm sự của các trí giả trong thời mất nước. Đó là một niềm tin bất diệt về sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.
Một lần cụ dặn tôi, bận thì bận, nhưng bận mấy nếu có dịp anh vẫn nên lảng vảng tạt qua những nơi vốn vẫn được gọi là chốn xưa cảnh cũ của Hà thành. Những chỗ ấy giờ sắp hóa phế tích cả rồi, tuy vậy vẫn còn giữ được nhiều dấu vết của cổ nhân, đủ để đời sau ngẫm ngợi. Đấy là những pho sử tưởng tản mạn mà rất công phu được đặt giữa đất trời, đặt trước mắt tất cả mọi người, mọi thời, nhiều khi nó còn toàn bích hơn cả những pho sử được cất giữ kín đáo trong cơ mật viện của các triều đại đã đi qua…
Lúc xây đền Ngọc Sơn bên hồ Gươm, các bậc khoa bảng cân nhắc mãi vẫn không biết nên rước ai vào thờ ở chỗ ấy cho phải nhất. Sau cùng, các cụ bảo nhau: Hơn hết thảy chỉ có Đức thánh Trần mà thôi. Cũng từ cái đức lớn của ngài mà cụ Phó bảng Nguyễn Văn Siêu mới ghi ra được mấy câu đối đề ở cổng trong cửa đền: Luận sự thường tồn trung hậu tâm, vật đại phân hắc bạch/ Vi văn bất tác khinh bạc ngữ, đồ tự sính thơ hùng. Tức là: Khi xem xét việc đời nhớ là phải lưu lại lấy một chút lòng trung hậu, chớ có riết róng chuyện đúng sai quá. Văn chương thì phải tránh dùng những lời khinh bạc, cao ngạo, càng không nên hoa mĩ, son phấn mà làm gì.
Rồi anh lại phải qua Văn Miếu. Đó cũng là chỗ linh thiêng huyết mạch chẳng kém gì hồ Gươm. Có nhiều chỗ bị tàn phá xây cất lại mấy lần… Đến thời nhà Nguyễn thì trong Huế có Văn Thánh, cũng là văn miếu cả đấy. Tuy vậy, vào thời Minh Mạng, các cụ ngoài này vẫn tiếp tục cho xây Khuê Văn Các. Khuê Văn Các mới có từ đó.
Ở trong nhà Văn Miếu giờ vẫn đang để ba chữ “Tập đại thành”. Thế nào là Tập đại thành đây? Đấy là mấy chữ được rút ra từ sách “Luận ngữ”, tập tiên thánh chi đại thành, nghĩa là phải đọc kĩ lưỡng tất cả các bậc hiền triết trước mình, không trừ một ai. Vô khối người lớn giúp ta trưởng thành, ở đời đừng có một mực chỉ biết tới cái này mà không thấy còn có cả những cái kia…
Hai thời Lý - Trần có nhiều thành tựu lớn, khoan dung mà mạnh mẽ. Đó là một sự khai mở vĩ đại mang lại hồng phúc cho dân tộc. Đã không đủ sức bao dung ôm nhận thử hỏi làm sao có thể gọi là lớn. Cái khổ, cái nghèo suy cho cùng chưa phải cái đáng sợ nhất. Cái đáng sợ nhất có nhẽ là sự tăm tối, nó mới chính là cái nghèo nhất trong mọi cái nghèo…
Chiều ấy, tôi tạ từ nhà sư bước đểnh đoảng ra khỏi cổng chùa. Sóng vỗ ì oạp lên bến đá. Ở đằng xa, chỗ mây nước một màu, trong sương lạnh đàn sâm cầm đang vừa đạp cánh, vừa chin chít gọi nhau…
Tùy bút của Nhà văn Đỗ Chu