Tình già
Tin tức 07/06/2019 12:45
Đã thành lệ, cứ khi mặt trời gần xuống núi, phía Tây hừng lên đỏ ối. Người ta lại thấy hai ông bà già khoác tay nhau ra công viên. Ông người thanh mảnh, với đôi kính trắng dày cộp, mái đầu bạc phơ, làn tóc bồng bềnh xõa xuống vầng trán rộng thanh khiết, hơi xanh xao, chiếc quần màu sẫm, chiếc áo trắng cộc tay, tay chống chiếc gậy trúc. Bà luôn đi bên cạnh, tay nắm trong tay, như sợ ông ngã, dáng bà đậm đà, mái tóc muối tiêu dày, cuộn một cục lớn phía sau gáy, mặt luôn vui tươi, hai ông bà đi chậm rãi thư thái dọc đường quanh công viên, lâu lâu dừng lại ngồi trên ghế đá dưới gốc cây, mắt nhìn xa xăm.
- Ông đã mệt chưa? Bà mở túi nhỏ, lấy chai nước đưa cho ông.
- Tôi xin bà, ta ngồi nghỉ một lát rồi đi thêm một vòng nữa, để về ăn cơm chiều là vừa.
- Có lẽ chúng mình đi cũng được một cây số rồi đó, bác sĩ bảo mình nên vận động nhẹ nhàng, đều đặn, nơi không khí thoáng đãng trong lành, có lợi cho bệnh tim mạch của mình.
- Tôi năm nay đã 76 tuổi, quá “thất thập cổ lai hi” rồi. Tôi hơn bà những 9 tuổi. Chỉ sợ tôi đi trước bà, thương bà ở lại, lại một mình vò võ như những năm tôi ở chiến trường!
- Phủi phui cái miệng ông đi! Sống chết là có số trời, biết đâu tôi lại đi trước ông. Ai đi trước là người ấy sướng. Số phận đã cho chúng ta ở với nhau mấy chục năm, từng chia sẻ đắng cay ngọt bùi, nuôi dạy con cái trưởng thành, bây giờ còn được bên nhau là tôi mãn nguyện lắm rồi. Tôi sẽ chăm sóc mình mãi mãi.
- Tôi cũng chỉ mong được thế!
- Mình ơi! Có gió lạnh rồi, mình khoác thêm chiếc ào này, ta về kẻo muộn!
Hai ông bà lại khoác tay nhau về.
Cả phố bàn tán về đôi bạn già ấy! Bọn trẻ thì bảo: “Khiếp, các cụ cũng tình tứ ra phết ấy nhỉ”.
Lớp trung trung thì khen: “Vợ chồng sống được như các cụ cũng sướng một đời vợ chồng chưa bao giờ thấy các cụ nặng lời với nhau! Một năm một vài lần có công việc con cháu về đầy nhà nói cười vui vẻ”.
Nhà ông bà mãi trong ngõ phố, ngôi nhà nhỏ nằm giữa mảnh đất rộng, nhà kiểu chữ V một thò hai thụt, kiểu nhà của những năm 90 thế kỉ trước. Căn lồi nhỏ là phòng ngủ của hai ông bà, một máy điều hòa, một ti vi màn hình rộng treo tường, cửa hém ra hồi là phòng tắm và nhà vệ sinh. Gian giữa là phòng khách. Đặt bộ bàn ghế Đồng Kỵmầu sẫm, gian bên là tủ sách lớn, một bàn máy vi tính là nơi làm việc của ông, bên cửa sổ đốc là chiếc giường xếp, cây quạt phun sương, chiếc bàn nhỏ để khay trà và chồng báo mua hằng ngày, để lúc mệt ông nằm đọc báo, uống trà thư giãn.
Cứ sáng dậy bà lo ăn sáng, pha hai ông bà hai cốc cà phê sữa nóng, bà đi chợ, ông ở nhà ngồi vào máy. Như cái nghiệp mà ông đeo đuổi, sau ngày bị tai biến, ông càng tích cực làm việc, không để cho cái đầu ngưng nghỉ. Những kỉ niệm của 12 năm chiến trường, ông viết ra thành những truyện, những bài thơ, về nỗi đau chiến tranh, về những hào hùng, những hi sinh của người lính trong chiến tranh và trong thời hậu chiến.
Đến 9 giờ, bà đi chợ về, ông ra đỡ xe, kéo quạt. Khi mớ tép tươi vài mớ lá Lằng, với một mớ cà kiu, vài quả cà muối, thành bữa cơm trưa ông thích. Ăn uống ông bà chẳng cầu kì gì, nhiều rau củ quả, chỉ vài miếng thịt nạc, miếng cá tươi nấu bát canh chua, ông gắp cho bà, bà nhường cho ông. Ngày hai bữa cơm vui vẻ.
Trước nhà là hàng cây chè mạn hảo, được xén tỉa thành bức tường thẳng tắp, ngõ là hai bụi bông bụt to kết lại thành chiếc cổng vòm xanh, điểm những bông hoa đỏ rực rỡ, bên cạnh là cây hoa ngọc lan, những cánh hoa trắng ngà chúm chím, thơm ngan ngát, bên cạnh cây ngọc lan là bộ bàn ghế đá để chiều các ông bạn già, bạn văn thơ của ông đến chơi, bên ấm trà hương nhài các cụ tha hồ đọc báo đọc thơ, trao đổi chuyện trò. Cuộc sống êm đềm ấy cứ trôi đi từng ngày.
Có lần con gái út ở Hà Nội, sinh cháu thứ hai, ông chuẩn bị đủ thứ cho bà ra với con 5 ngày. Bà bảo:
- Tôi đi mấy ngày rồi tôi lại về với ông, ông chịu khó ăn ngủ khi vắng tôi, thức ăn tôi để trong tủ lạnh, con cháu ngoại sẽ xuống lo cơm nước cho ông.
- Mình cứ yên tâm mà ra với con với cháu, tôi ở nhà một mình được mà!
- Tôi còn lạ gì mình khi tôi vắng nhà! Mình không được bỏ bữa, đêm không được trằn trọc thức khuya, nói không được khi về tôi kê giường nằm riêng cho mình quen dần.
- Ông cười. Nằm riêng tôi càng dễ ngủ!
- Được rồi! Mình nhớ giữ lấy lời.
Thế là đêm ấy bà đi. Ông trằn trọc. Ngọn đèn ngủ cứ chập chờn bỡ ngỡ như chuyến tàu đêm cứ chạy hoài trong nỗi nhớ bà. Mệt quá mãi ba giờ sáng ông mới thiếp đi, sáng ra cháu gái xuống gọi ông mới tỉnh dậy.
Căn nhà trở nên rộng rãi, trống vắng. Ông nhận ra ông không thể thiếu bà, Ông nhớ có đợt bà ốm, ông sợ cuống quýt gọi các con về, ông bê bát cháo đút cho bà hai tay run cầm cập, bà vừa ăn vừa cười thành tiếng.
- Bà cười gì tôi!?
- Ông sợ tôi chết à? Sao lại cuống lên thế, gọi các con về làm gì! Chỉ mệt sơ sơ rồi tôi lại khỏe, tôi chỉ thử xem ông có biết chăm tôi không, tuy cả đời ông không nói ông yêu tôi, chỉ bằng cử chỉ, ánh mắt ông nhìn ông lo lắng cho tôi là tôi biết ông thương tôi biết nhường nào rồi, tôi cảm ơn ông, tôi chưa chết được đâu, tôi mà chết thì lấy ai chăm sóc ông, nếu có chết tôi cũng phải tìm cho ông một người chăm sóc thay tôi chứ!
- Ông cười! bà làm sao tìm được! Tôi quen mùi mồ hôi, mùi tóc của bà rồi mùi khác tôi không ngủ được đâu, bà ơi! Bà mau khỏe lên, để ngày mai ta cho các con nó đi làm, tôi sẽ chăm bà, bà thích gì bà cứ bảo tôi.
- Tôi không thích gì cả! Chỉ thích có ông bên cạnh!
- Thì tôi vẫn ở bên cạnh bà đấy thôi! Cũng may lần ấy bà cũng chỉ mệt mấy ngày, rồi lại khỏe lại, bà lại đi chợ, lại nấu ăn, chiều lại đi công viên.
Có hôm hơn 9 giờ bà mới ở chợ về, trời nắng thấy ông vẫn miệt mài cặm cụi bên bàn viết, bà vội xuống bếp pha cốc sữa nóng, vài cái bánh quy, để trên chiếc đĩa nhỏ đưa lên bàn:
Ông ơi! Già rồi có ai bắt ông đâu mà ông phải gắng sức, ngày xưa khi ông có mấy cái giải thưởng Văn học một lúc bạn bè ông cứ này ông làm đơn vào hội này hội nọ, ông đã từ chối bây giờ có gì ràng buộc ông viết đâu, mà ông cứ miệt mài cho mất sức!
- Tôi có viết vì cái danh hão ấy đâu bà! Tôi viết để đền ơn ông bà cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục, trả cái nợ cho người làm ra lúa gạo nuôi ta, nhất là cái nợ của đồng đội tôi đã nằm lại chiến trường cho tôi được về sống với bà tới ngày nay, tôi cám ơn bà! Bà đã đứng đằng sau tôi để tôi có chục đầu sách lớn nhỏ để lại cho con cháu cho đời, người ta bảo đằng sau sự thành công của một người bao giờ cũng có bóng dáng của người phụ nữ. Bạn bè gọi tôi là “lão già ham viết” tôi tự hào vì cái tên ấy cũng là nhờ bà.
- Nào tôi có làm được gì cho ông! Ông ngước lên nhìn bà đắm đuối biết ơn, ông tắt máy, bà cầm tay ông dắt ông vào nghỉ.
Cuộc sống ấm cúng bình yên êm đềm trong ngôi nhà nhỏ của hai ông bà già, cứ thế qua ngày qua tháng! Thế rồi cái điều ông linh cảm và không mong đợi cũng đến bất ngờ:
Sáng ấy thấy bà dậy muộn, ông khẽ lay bà dậy, bà mở mắt vội nhắm nghiền.
Ông ơi! Tôi đau ngực và khó thở, ông vội đỡ bà trên tay, xoa ngực cho bà, bà oằn mình nấc lên một tiếng rồi lịm dần trên tay ông! Ông hốt hoảng gọi điện cho con cháu, ông đặt bà nằm trên giường, đắp chiếc chăn hoa mới cho bà, ông biết cái quy luật khắc nghiệt của đời người đã đến, ông ngồi bên cạnh không khóc nhìn bà, khuôn mặt thanh thản tươi tỉnh như đang ngủ, ông nhớ đã nhiều lần bà dặn ông: “Nếu không may tôi chết trước ông, ông cũng đừng khóc nhiều, các con cũng vậy, tôi đã phải khóc quá nhiều hết cả nước mắt những năm ông để tôi một mình ông đi!”. Bây giờ ngồi nhìn bà, ông thương bà đến quặn xót, ông không khóc mà nước mắt cứ tuôn trào.
Thế là bà đã bỏ ông mà đi thật rồi! Từ nay không còn ai đưa ông ra công viên, không còn ai lo cho ông miếng cơm cốc sữa, không còn ai nằm bên ông đấm lưng bóp tay, ông phải sống những ngày cô đơn lạnh giá để chờ ngày được đi theo bà.
Mùa Đông lại đến, ông mở tủ lấy chiếc áo len bà mới đan cho ông để mặc gió heo may thổi thông thống vào mấy khung cửa trống, ông rùng mình lại bên bàn thờ thắp hương cho bà, ông lặng người nhìn bà đang đắm đuối nhìn ông miệng mỉm cười, ông kéo ghế ngồi bên bà, ngoài trời những hạt mưa bay bay gió giông rin rít thổi, ông rười rượi buồn gục xuống…
Truyện ngắn của Xuân Chuẩn