Tỉnh Long An: 14 năm mòn mỏi đợi chờ, vẫn chưa được sửa sai!?
Pháp luật - Bạn đọc 01/11/2018 14:26
Kì 1: Thanh tra Chính phủ vẫn chưa sửa sai
14 năm đã qua, kể từ ngày 22/12/2004, TTTCP kí Báo cáo kết luận số 1862/TTCP-V4 đến nay, cứ mỗi lần mẹ con bà Trần Thị Liễu gửi đơn khiếu nại, thì UBND tỉnh Long An một mực đổ lỗi do TTCP chưa trả lời. Cũng bởi, nội dung báo cáo này bảo vệ những sai phạm nghiêm trọng, liên quan đến một số cán bộ thuộc 3 cấp chính quyền ở tỉnh Long An, trong việc giải quyết tranh chấp đất đai. Những vụ khiếu kiện kéo dài này, từ nguồn gốc đến mọi diễn biến của vụ việc, Báo Người cao tuổi đã đăng trong các số: 22 (530) ngày 14/3/2008; số 23 (531) ngày 19/3/2008; số 91 (599) ngày 12/11/2008; số 922 ngày 22/6/2011; số 923 ngày 24/6/2011; số 925 ngày 29/6/2011. Đặc biệt trong số: 186 (2130) ngày 22/11/2017 và số 187 (2131) ngày 23/11/2017, đăng bài: “Bao giờ TTCP sửa sai?”. Kể từ đó đến nay, Toà soạn vẫn chưa nhận được sự phản hồi từ phía TTCP. Trong số báo này, chúng tôi chỉ nêu tóm tắt vụ việc, để bạn đọc thấu hiểu phần nào về cách hành xử của 3 cấp chính quyền ở tỉnh Long An, đối với một gia đình mẹ goá, con côi, vướng vào tụng đình.
Vụ khiếu nại thứ nhất: Năm 1977, bà Liễu đưa 10.000m2 đất ruộng (1ha) vào tập đoàn sản xuất. Đến năm 1987, tập đoàn sản xuất giải thể, theo chủ trương trả lại đất, thì đất ai trở về chủ đó. Thế nhưng, bà Liễu chỉ nhận lại được 500m2. Bà cho con gái Phan Thị Mỹ Lệ lập vườn, cất nhà trên diện tích đất này. Năm 1990, UBND thị xã Tân An (nay là TP Tân An) có quyết định cất nhà tình nghĩa cho bà Võ Ánh Nguyệt trên phần đất 500m2 của bà Lệ đang sử dụng hợp pháp, với lí do bà Nguyệt là chị gái của một liệt sĩ. Đột nhiên một số người sử dụng quyền lực cá nhân, ngang nhiên đột nhập vào nhà bà Lệ, tước đoạt tài sản quá trắng trợn. Khi xảy ra tranh chấp gay gắt, ông Trần Ngọc Nhóm, cựu Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An, hai lần có ý kiến chỉ đạo ông Nguyễn Văn Thiệp, Giám đốc Sở TN&MT đến kiểm tra hiện trường, lập biên bản tạm đình chỉ thi công, làm rõ vụ việc để giải quyết khiếu nại của bà Lệ. Trong khi vụ việc chưa được ông Thiệp tiến hành xác minh, một số cá nhân của UBND phường 4, thị xã Tân An ập vào nhà đập phá tan tành căn nhà, huỷ hoại toàn bộ vườn cây của bà Lệ, để lấy đất cất nhà tình nghĩa. Xây nhà xong, 6 năm sau mới hợp thức hoá giấy tờ. Ngày 25/5/1996, UBND phường 4 mới lập Biên bản giao 500m2 đất cho bà Nguyệt. Thời điểm lúc bấy giờ, tại địa phương còn rất nhiều mẹ liệt sĩ cuộc sống gặp khó khăn, vẫn chưa được cấp nhà tình nghĩa. Trong khi bà Nguyệt là chị của liệt sĩ, đã có nhà ở đàng hoàng, cuộc sống không khó khăn, nhưng do thân quen một số cán bộ có chức, có quyền ở phường, dẫn đến những hành vi cố ý làm trái. Những sai phạm của UBND phường 4 quá rõ ràng. Trong Biên bản họp khối nội chính của UBND thị xã Tân An ngày 8/9/1992 nêu rõ: “Phần đất cất nhà tình nghĩa cho bà Nguyệt, là gia đình chính sách, trên đất của bà Liễu ở phường 4, xét hoàn cảnh thực tế của bà Nguyệt đời sống không phải khó khăn, nay bà Nguyệt phải bồi hoàn theo 609 cho bà Liễu, Nhà nước không bỏ ngân sách ra bồi hoàn phần diện tích đã sử dụng theo quyết định được cấp. Phần đất còn thừa lại phải giao trả lại cho bà Liễu tuỳ nghi sử dụng”.
Do tranh chấp đất, bà Liễu bị côn đồ đánh trọng thương phải cấp cứu tại bệnh viện
và thay máy trợ tim nhiều lần
Sau khi lấy đất của mẹ con bà Liễu, cất nhà tình nghĩa cho bà Nguyệt không đúng đối tượng, bà Nguyệt chỉ ở được 1 năm rồi bỏ hoang suốt 27 năm nay. Hiện bà Nguyệt và 2 người chồng đã chết, 3 người con đang sinh sống tại TP Hồ Chí Minh. Để ngụy biện lí do bác đơn đòi lại đất của bà Lệ (con bà Liễu), UBND phường 4 và Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội thị xã Tân An cùng nhau kí Báo cáo ngày 11/1/1997, với nội dung hoàn toàn sai sự thật: “...Phần đất phường 4 đã chọn xây nhà tình nghĩa cho bà Nguyệt, là đất của ông Sương. Ông Sương là con bà Liễu. Phần đất này không phải của bà Liễu trực tiếp quản lí, mà đất này ông Sương trực tiếp quản lí. Sau khi cấp cho bà Nguyệt đã đền bù theo 609 của tỉnh, nhưng ông Sương không đồng ý nhận tiền đền bù này. Hiện nay tiền đền bù UBND phường 4 đã gởi tiết kiệm”.
Trên thực tế, bà Liễu không có người con nào tên là Sương, mà chỉ có người em trai tên Sương. 500m2 đất này, UBND thị xã Tân An đã chứng minh rõ ràng trong biên bản họp nội chính nêu trên. Vậy mà, khi ban hành văn bản, UBND thị xã Tân An lại lấp liếm, tạo chứng cứ giả cho rằng, giữa ông Sương và bà Liễu có sự hoán đổi đất (ông Sương giao cho bà Liễu 7.300m2, bà Liễu để ông Sương nhận tiền bồi hoàn của 7 hộ dân, trong đó có bà Nguyệt). Dựa vào những căn cứ ngụy biện, giả tạo chuyện ông Sương đã nhận tiền 500m2 đất bà Nguyệt bồi thường, ngày 16/1/1999, UBND thị xã Tân An ban hành Quyết định số 54/1999/QĐ-UB, bác đơn khiếu nại của bà Lệ. Như vậy, sai phạm cứ nối tiếp sai phạm. Ngày 23/12/1999, UBND tỉnh Long An ban hành Quyết định số 4079/QĐ-UB, chuẩn y Quyết định số 54 có nội dung trái pháp luật của UBND thị xã Tân An.
Bà Lệ tiếp tục gửi đơn khiếu nại lên Trung ương. Sau khi đến tận hiện trường phúc tra, ngày 9/10/2003, Bộ TN&MT có Văn bản số 2626/BTNMT-TTr, báo cáo Thủ tướng Chính phủ: “Kết quả phúc tra, ông Sương không có chứng cứ chứng minh việc hoán đổi 7.300m2 đất. Đề nghị UBND tỉnh Long An xem xét căn cứ, giải quyết bồi hoàn cho đúng đối tượng... giao số tiền bồi hoàn thành quả lao động và hoa màu của 7 hộ dân trước kia cho gia đình bà Trần Thị Liễu, theo Quyết định số 3174/QĐ-UB của UBND tỉnh Long An”. Chứng cứ này chứng minh rằng, cả 3 cấp chính quyền ở Long An đã tìm mọi cách tạo chứng cứ giả, cố tình hành hạ người dân khi họ đang khiếu nại. Trong khi 500m2 đất của bà Liễu, lại giao tiền bồi hoàn cho ông Sương, không phải chủ sở hữu nhận. Đến đây, hành trình trên 35 năm khiếu kiện của mẹ con bà Liễu đã quá rõ ràng.
Nghe theo lời vận động, bà Liễu đưa 10.000m2 đất ruộng vào tập đoàn sản xuất. Khi tập đoàn giải thể, bà Liễu chỉ được trả lại một phần hai mươi (500m2). Ấy vậy mà còn bị chính quyền phường trút dồn dập biết bao nỗi đau lên mẹ con bà Liễu. Tuy vụ việc quá rõ ràng, nhưng để bao che cho hàng loạt văn bản đã ban hành có nội dung trái pháp luật của 3 cấp chính quyền ở Long An, ngày 22/12/2004, TTCP có Báo cáo số 1862/TTCP-V4 gửi Thủ tướng Chính phủ, với nội dung sai sự thật: “...Riêng việc khiếu nại nhận tiền đền bù của bà Lệ, thì Bộ TN&MT không có ý kiến thể hiện trong báo cáo”. Điều này chứng tỏ TTCP thiếu trung thực, bao che cho những người làm trái ở Long An.
Cũng chính vì nội dung kết luận sai trái này của TTCP, mà suốt 14 năm nay, UBND tỉnh Long An vin cớ để đổ lỗi cho TTCP chưa có văn bản trả lời đơn khiếu nại của bà Liễu, nên UBND tinh không thể có căn cứ để giải quyết. Trong khi đất bà Liễu, bà Lệ, bà Nguyệt đang xảy tranh chấp gay gắt, các cấp chính quyền ở Long An và các ngành chức năng liên quan ở Trung ương đang xem xét giải quyết, thì “căn nhà tình nghĩa” của bà Nguyệt bỏ hoang suốt 27 năm nay trên khu đất 500m2 của gia đình bà Liễu. Tất cả đang trông chờ TTCP sửa sai. Vậy mà không hiểu vì động cơ nào, ông Nhã khi còn làm Phó Chủ tịch UBND phường 4, đã lén lút kí giấy chấp thuận cho con bà Nguyệt bán căn nhà này: “QSDĐ số AH 438763 do UBND TP Tân An cấp ngày 3/5/2007. Hiện nhà không bị tranh chấp, không bị quy hoạch giải toả”. Ấy vậy mà ông Nhã vẫn được đề bạt Bí thư Đảng uỷ phường 4. Còn bà Liễu, sau hơn 35 năm ôm đơn đi khiếu kiện, đến nay vẫn chưa nhận được một đồng tiền bồi hoàn, không đòi lại được tấc đất nào. (Còn tiếp)
Nhóm PVĐT