Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam.
Điểm mặt Công ty “mẹ - con” của ACVNăm 2012, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải quyết định thành lập Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV), trên cơ sở sáp nhập ba cụm cảng hàng không, với hơn 20 sân bay và các dự án hạ tầng hàng không cả nước. ACV trở thành “siêu” Tổng Công ty cổ phần, độc quyền khai thác các sân bay Nhà nước.
Hiện ACV có 3 công ty con liên kết hoạt động tại khu vực sân bay Nội Bài: Công ty CP Dịch vụ nhiên liệu hàng không Nội Bài (NAFSC), chuyên cung cấp nhiên liệu máy bay; Công ty CP phục vụ mặt đất Hà Nội (HGS), chuyên cung cấp các dịch vụ mặt đất, hành khách tại sân bay và Công ty CP Dịch vụ hàng hóa hàng không (ACSV), chuyên cung cấp các dịch vụ liên quan tới hàng hóa hàng không. Sau các công ty này, lại là các Công ty con khác. Ví dụ: Công ty CP Dịch vụ hàng hóa Nội Bài cùng Công ty CP Đầu tư thương mại và dịch vụ quốc tế góp vốn, thành lập Công ty CP logistics hàng không (ALS). Đây là công ty chuyên lo các phần việc thủ tục, vận chuyển hàng hóa hàng không của ACV...
Cũng trong năm 2014, Trung tâm Dịch vụ ga hàng hóa Nội Bài được chọn là đại diện tiên phong của Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, thực hiện chuyển đổi vốn chủ sở hữu từ Nhà nước sang tư nhân thông qua quá trình cổ phần hóa. Doanh nghiệp này chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/6/2015.
Ngày 6/10/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1710/QĐ-TTg, về phương án cổ phần hóa Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam. Vốn điều lệ và cơ cấu cổ phần lần đầu là trên 22.000 tỉ đồng; Tổng trên 2,2 tỉ cổ phần; Mệnh giá một cổ phần là 10.000 đồng. Nhà nước nắm giữ gần 2 tỉ cổ phần, chiếm 75% vốn điều lệ, bán ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp 31 triệu cổ phần, chiếm 1,4% vốn điều lệ. Trong đó, bán ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp, theo quy định tại Khoản 1, Điều 48 Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011, trên 9 triệu cổ phần, chiếm 0,41% vốn điều lệ. Bán ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp, theo quy định tại Khoản 2, Điều 48 Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011, trên 22 triệu cổ phần, chiếm 0,99% vốn điều lệ.
Bán ưu đãi cho tổ chức Công đoàn 3 triệu cổ phần, chiếm 0,13% vốn điều lệ; Bán cho nhà đầu tư chiến lược trên 448 triệu cổ phần, chiếm 20% vốn điều lệ; Bán đấu giá công khai trên 77 triệu cổ phần, chiếm 3,47% vốn điều lệ. Tổng số lao động tại thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp là 8.443 người; tổng số lao động chuyển sang làm việc tại công ty cổ phần là 7.925 người.
Quy định là vậy, dù ACSV xác nhận là doanh nghiệp được cổ phần hóa, nhưng thực tế người lao động tại Trung tâm Dịch vụ ga hàng hóa Nội Bài lại không được tham gia vào quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp này.
Nguyên cán bộ của ACSV (xin được giấu tên – PV) cho biết, cho tới tháng 3/2015, phương án cổ phần hóa mà người lao động biết, vẫn gắn với thông tin ACV sẽ nắm trên 51% vốn điều lệ ACSV sau này. Và việc cổ phần hóa có bao gồm bán cổ phần ưu đãi cho người lao động. Tuy nhiên, sau đó, không hiểu phương án cổ phần hóa do ai “xoay chiều”, mà tới tháng 6/2015, người lao động, công đoàn tại doanh nghiệp này mới “ngã ngửa” khi biết việc cổ phần hóa đã triển khai xong. Khi đó, vốn của ACV tại ACVS chỉ còn lại 20%, không có bóng dáng cổ phần ưu đãi bán cho người lao động trong vốn điều lệ của doanh nghiệp mới. “Vốn khi cổ phần hóa khoảng 200 tỉ đồng, cần gì cho người ngoài mua, chỉ người tại trung tâm cũng đủ mua được. Ai ngờ chỉ trong có 2 tháng, các ông ấy cho làm lại toàn bộ phương án cổ phần hóa như thế” - người cán bộ này tiếc rẻ.
Góp vốn, liên doanh để mở rộng sản xuất kinh doanh là chuyện bình thường. Song, điều đáng lưu ý, đến “cấp” doanh nghiệp thứ 2, 3 này, phần vốn của các công ty con thuộc ACV đã giảm hẳn, phần lớn vốn góp thuộc về các công ty TNHH hoặc cá nhân. Tại ALS, hiện vốn của Công ty CP Dịch vụ hàng hóa Nội Bài chỉ còn 10,063% vốn điều lệ. “Nối dài” tới Công ty ASG, tỉ lệ nắm giữ điều lệ của ALS chỉ còn chưa tới 5%, trong khi một Công ty TNHH và một cá nhân còn lại nắm gần 78%.
Cách đầu tư và bố trí công việc này đưa tới kết quả, những phần việc lợi nhuận tốt nhất trong chuỗi dịch vụ hàng không, mà ACV khai thác độc quyền, tự nhiên rơi vào những doanh nghiệp về danh nghĩa thuộc Tổng công ty. Trên thực tế, lợi nhuận từ doanh thu lại là của một số cổ đông cá nhân hoặc doanh nghiệp ngoài ACV.
Những doanh nghiệp kí hợp đồng trực tiếp với ACV, hoặc công ty con của ACV mặc nhiên được thuê trụ sở, thuê kho ngay trong khu vực sân bay Nội Bài, điều mà ngay các doanh nghiệp khác không thể “mơ” tới. Chẳng hạn, doanh nghiệp Sam sung, hiện chiếm khoảng dưới 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, cũng bị từ chối cho thuê diện tích sân bay Nội Bài để làm thủ tục hàng không cho hàng hóa của hãng. Sam sung hiện vẫn phải thuê dịch vụ ALS, doanh nghiệp chỉ có hơn 10% vốn, là của công ty con thuộc ACV.
Đương nhiên, theo quy định về công ty cổ phần, ai nắm giữ nhiều cổ phiếu người đó sẽ được hưởng nhiều lợi nhuận hơn. Nói cách khác, độc quyền kinh doanh của ACV có, đã được chuyển hóa thành một dạng biệt đãi với các công ty con mà các cơ quan chức năng khó có thể lần tới.
HGS – với những siêu đặc quyền từ ACV?Dư luận hiện đang xôn xao việc khai thác các dịch vụ có yêu cầu rất cao về an ninh và chất lượng như sân bay, là loại hình kinh doanh đặc thù. Dù mọi doanh nghiệp đều mong muốn, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đáp ứng được yêu cầu ấy, để kinh doanh trong sân bay. ACV đã khai thác và “biến” các dịch vụ trong sân bay thành đặc quyền dành cho chuỗi công ty “con”, công ty “cháu”, trong đó có Công ty CP Phục vụ mặt đất Hà Nội - HGS?.
Được biết, HGS thành lập ngày 2/4/2015, với vốn điều lệ 150 tỉ đồng. Trong đó, ACV chỉ nắm 20% vốn điều lệ, 80% còn lại được nắm bởi 3 cổ đông pháp nhân khác. Năm 2017, chỉ sau 2 năm thành lập, ACV có tờ trình xin được thoái 20% cổ phần vốn điều lệ đang nắm giữ tại HGS, được Bộ Giao thông Vận tải đồng ý. Tại thời điểm này, HGS đang cung cấp, nắm khoảng 30% thị trường dịch vụ mặt đất tại cảng hàng không quốc tế Nội Bài, với khoảng 350 – 400 tỉ đồng doanh thu mỗi năm. Số doanh thu này, tuy không phản ánh nhiều về tiềm lực thực sự của HGS, nhưng hiện doanh nghiệp này nắm trong tay các hợp đồng cung cấp dịch vụ với các hãng bay hàng đầu thế giới.
Trong số các cổ đông sáng lập của HGS, đầu tiên là Công ty CP Cung cấp thiết bị và Dịch vụ bảo dưỡng hàng không là cổ đông lớn nhất, nắm 30% vốn điều lệ HGS. Công ty này do Công ty TNHH Danh Minh và ông Nguyễn Tuấn Anh nắm 80% vốn điều lệ. Ông Nguyễn Tuấn Anh đồng thời là Chủ tịch HĐQT của HGS. Như vậy, sau khi ACV thoái vốn, Chủ tịch HĐQT của HGS chính là người sẽ được mua cổ phần HGS với số lượng lớn nhất.
Các cổ đông còn lại của HGS, tương tự, cũng đều là các Công ty TNHH, với những cổ đông chủ chốt, mà tên còn xuất hiện thêm trong một số doanh nghiệp cổ phần có quan hệ chặt chẽ với ACV. Sự lạ lùng của câu chuyện này đầu tiên xuất hiện từ “đề xuất thoái vốn” tại HGS. Dư luận đặt câu hỏi, vì sao khi thành lập doanh nghiệp, ACV chủ động chỉ nắm 20% vốn điều lệ của HGS? Sau khi thành lập, liệu HGS có được quá “ưu ái” khi ACV “tạo điều kiện” để nắm được tới 30% thị phần dịch vụ tại sân bay Nội Bài?
Chưa đầy 2 năm sau đó, ACV rút vốn khỏi HGS, hoàn thành thương vụ hỗ trợ HGS, “thò một chân” vào thị trường dịch vụ hàng không béo bở và đầy đặc quyền tại sân bay Nội Bài.
(Còn nữa)
Nguyễn Hải - Hải Long