Thành Đồng Hới - Dấu xưa hào hùng
Văn hóa - Thể thao 31/07/2018 09:52
Năm Gia Long thứ 10 (1812) thành Đồng Hới được khởi xây trên chính địa thế của lũy Trấn Ninh năm xưa mà Nội tán Đào Duy Từ được chúa Nguyễn Phúc Nguyên sai xây dựng năm 1631, làm nên thành trì giới hạn cho hai quân Trịnh – Nguyễn. Với lợi thế giáp cửa biển Nhật Lệ, thành Đồng Hới vừa là nơi kín đáo, an toàn để tiếp nạp quân lương, vừa là tấm lá chắn vững chắc bên bờ Biển Đông góp phần ngăn chặn những cuộc tấn công bằng đường thủy của đối phương ghi đậm những chiến công vẻ vang, trong đó có công cuộc Bắc tiến của các chúa Nguyễn, kết thúc 200 năm “nồi da xáo thịt” trong cuộc chiến với nhà Trịnh. Thành cổ Đồng Hới còn là chứng tích chiến tranh in hằn những mất mát đau thương cùng những chiến công hào hùng của quân và dân Quảng Bình trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Lúc đầu, thành Đồng Hới được đắp bằng đất, đến năm 1824, vua Minh Mạng liên hệ với một sĩ quan người Pháp, cho thiết kế lại và xây dựng bằng gạch theo kiểu kiến trúc Vô-băng (Vauban 1633 - 1707, tên một kĩ sư quân sự người Pháp). Đây là lối kiến trúc thành trì quân sự cổ điển thịnh hành ở phương Tây thế kỉ XVII. Khi vua Gia Long lên ngôi và các vị vua triều Nguyễn nối tiếp sau đó, họ cho xây dựng từ Nam ra Bắc các tòa thành kiểu này, như thành Sài Gòn, Huế, Hà Nội, Sơn Tây, Cao Bằng, Lạng Sơn…
Cổng tam quan, cầu mái vòm và một đoạn hồ thành Đồng Hới
Để thành chắc chắn, người ta dùng gạch kích thước lớn, nung già; mạch trát vữa và mặt tường có trổ các lỗ châu mai, bố trí hệ thống các pháo đài, chân phía trong và phía ngoài thành… Chiếu theo đó, thành Đồng Hới là thành lũy quân sự kiên cố có hình múi khế, xoay theo hướng Tây Nam - Đông Bắc và Tây Bắc -Đông Nam với 4 múi to, 4 múi nhỏ. Thành Đồng Hới xây bằng gạch vồ (một loại gạch to dày, thô nhám) cao 4m, chu vi 1.860m, bề mặt thành rộng 1,35m...
Thành Đồng Hới có 3 cửa thành ở phía Đông, Bắc và Nam được xây theo lối kiến trúc truyền thống của Việt Nam với kiểu cổng tam quan có vọng canh 8 mái vẫn thường xuất hiện ở đình chùa, miếu. Cách chân móng thành khoảng 6m là hồ thành rộng chừng 28m, sau lưng cổng thành là chiếc cầu gạch mái vòm bắc qua con hào để thông ra ngoài. Phía bờ hào bên kia thành còn được đắp thêm một con đường phụ rộng 12m. Năm Nhâm Dần 1842, vua Thiệu Trị trên đường “ngự giá Bắc tuần” qua lũy Trấn Ninh lưu ý đến hiện trạng không còn nguyên vẹn của công trình này. Sau đó, ông lấy tên Định Bắc Trường thành thay thế cho cái tên cũ rồi nhanh chóng ban kinh phí trùng tu ngôi thành này.
Ngày 19/7/1885, thực dân Pháp chiếm thành Đồng Hới, ngay lập tức tòa thành này trở thành điểm giao tranh ác liệt giữa tướng lính nhà Nguyễn với binh lính Pháp mà đỉnh điểm là 3 lần đột nhập vào thành Đồng Hới của nghĩa quân Nguyễn Phạm Tuân vào tháng 1, 6, 8 năm 1886. Thành cổ Đồng Hới đổ nát nghiêm trọng trong thời kì Pháp thuộc.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Quảng Bình là tuyến lửa, chịu hàng vạn tấn bom đạn. Bên bờ tường thành khắc ghi dấu xưa oai hùng, những người con Quảng Bình đêm ngày xả thân, chấp nhận ngã xuống để bảo vệ đất mẹ, bảo vệ thành trì của cha ông. Những năm tháng gian lao mà anh dũng đó, đôi bờ Nhật Lệ, dưới bóng thành cổ uy nghi đã sản sinh ra những người con ưu tú, những anh hùng cho đến hôm nay vẫn còn được thơ và nhạc nhắc đến.
Sau ngày đất nước thống nhất (1975), thành Đồng Hới nhiều đoạn đã bị phá hủy và 2 cầu Nam, Bắc thành bị sập. Liên quan đến ngôi thành cổ này, vẫn còn lưu giữ những tư liệu gốc, hình ảnh đen trắng quý giá. Đến năm 2012, dự án phục hồi lại di tích cửa Đông đi liền với chiếc cầu vòm cuốn hướng ra biển Nhật Lệ trên cơ sở những yếu tố gốc được khởi công xây dựng. Cùng với khoảng 1.087m tường thành còn tồn tại tương đối nguyên gốc, thành Đồng Hới không chỉ là thành trì quân sự lưu dấu sử sách, mà còn điểm tham quan bổ ích cho du khách muốn khám phá; muốn nghe gạch đá kể câu chuyện từ ngàn xưa vọng về.
Nguyễn Tiến Dũng