Luật Đất đai có thể được Quốc hội thông qua tại kì họp bất thường

Theo chương trình kì họp thứ 6 khoá XV, ngày cuối cùng (29/11/2023) Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung).

Quốc hội sẽ họp bất thường để thông qua Luật Đất đai

Theo chương trình kì họp thứ 6 khoá XV, ngày cuối cùng (29/11/2023) Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung). Tuy nhiên, qua mấy kì họp trước và các phiên thảo luận lần này, Chính phủ và Quốc hội quyết định chưa thông qua để tháng 1/2024 sẽ có kì họp bất thường (lần thứ 5) sau khi Ban soạn thảo chỉnh lí, đưa ra các phương án để xin ý kiến Quốc hội thảo luận, có thể biểu quyết thông qua. Đó là một quyết định sáng suốt, thận trọng của cơ quan quyền lực cao nhất.

Nguyên nhân chủ yếu do Dự án luật thiết kế chính sách chưa tập trung, chưa trúng, khó xác định xu hướng, chưa thống nhất nhiều vấn đề phức tạp. Một số chính sách lớn, quan trọng chưa thiết kế được phương án tối ưu. Vì thế, về tổng thể dự án luật đặc biệt quan trọng này còn nhiều bất cập do tính chất phức tạp phát sinh từ trong thực tiễn. Để khơi thông nguồn lực đất đai, đặt lên hàng đầu yêu cầu về chất lượng của dự án luật, nhằm bảo đảm vững chắc, ổn định và lâu dài.

Một nền kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay đang phát triển, bên cạnh nguồn lực lao động (con người) thì đất đai là tài nguyên và là nguồn lực vật chất to lớn nhất. Từ khi công cuộc đổi mới diễn ra, Nhà nước đã 4 lần ban hành và thực hiện Luật Đất đai (1987, 1993, 2003 và 2013). Trong các giai đoạn phát triển đất nước, thể chế về đất đai đáp ứng được xu thế đi lên của kinh tế - xã hội, theo bước đi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, mỗi thời kì đều xuất hiện tình hình mới, những đòi hỏi mới, mâu thuẫn và bất cập mới nảy sinh, cần đặt ra hướng đi và hoạch định chính sách căn cơ, phù hợp.

Luật Đất đai có thể được Quốc hội thông qua tại kì họp bất thường
Luật Đất đai có thể được Quốc hội thông qua tại kì họp bất thường

Sau gần 10 năm thực hiện, Luật Đất đai 2013 bộc lộ khá nhiều bất cập, thiếu thống nhất, nhiều điều khoản chưa đồng bộ, nảy sinh xung đột với một số luật liên quan (Luật Lâm nghiệp, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu). Tình trạng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch treo, quy hoạch của nhiều ngành chồng lấn, quy hoạch không có tầm nhìn còn phổ biến. Điều đó, gây cản trở cho quá trình thực thi pháp luật, nhiều vướng mắc trong quản lí, sử dụng, khai thác tiềm năng đất đai và là một trong những nguyên nhân của tệ nạn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, kìm hãm sự phát triển kinh tế, nhiều nơi gây bất ổn về trật tự, an toàn xã hội do mâu thuẫn giữa người với chính quyền địa phương.

Chính sách lớn nhất là định giá đất, thu hồi đất

Theo nghị quyết 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 (Hội nghị Trung ương V khoá XIII): Về đổi mới, hoàn thiện chính sách về đất đai: Bỏ quy định về khung giá đất và xác định giá đất theo nguyên tắc thị trường, địa phương xây dựng giá trong việc thu hồi đất.

Định giá đất, thu hồi đất là vấn đề hệ trọng, tác động rất lớn đến kinh tế - xã hội. Mấy chục năm qua, đây cũng là tác nhân của mâu thuẫn phát sinh, xung đột cục bộ và số lượng đơn thư nhiều nhất trong các loại đơn khiếu nại, tố cáo xung quanh giá đất và thu hồi đất, giải phóng mặt bằng. Vì lẽ đó, dự thảo lần này của Luật Đất đai còn 14 vấn đề được nêu ra 2 phương án cần trình Quốc hội cho ý kiến. Nổi cộm là việc Nhà nước thu hồi đất quy định tại các Điều 79, 126 và 128.

Một số nội dung trong dự thảo về giá đất đều có 2 phương án, trong đó Điều 159 quy định về phương pháp định giá đất và các trường hợp, điều kiện áp dụng từng phương pháp để bảo đảm công khai, minh bạch, khả thi. Dù áp dụng quy định nào về giá đất cũng phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho người dân, Nhà nước kiểm soát được địa tô chênh lệch, bảo vệ được cán bộ, bảo đảm khả thi cho nhiệm vụ phát triển kinh tế. Do đó, luật phải nêu rõ điều kiện áp dụng, nguyên tắc lựa chọn của từng phương pháp. Tốt nhất là Nhà nước thu hồi đất để đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư hay thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đều tuân thủ pháp luật trên nguyên tắc minh bạch, công khai, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và lợi ích chính đáng của người có đất bị thu hồi theo tinh thần nghị quyết 18. Phương pháp tốt nhất là định giá sát với thị trường hoặc thoả thuận với người dân khi thu hồi, nhất là đối với các dự án kinh doanh thương mại, dịch vụ.

Đất thuộc các đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng trả tiền thuê hằng năm thì cần quy định không được bán, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, góp vốn bằng tài sản gắn liền trên đất thuê để tránh rủi ro như khi thua lỗ, ngân hàng “xiết nợ” sẽ thu tài sản như bệnh viện, trường học, công sở bởi đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng tài sản công. Tương tự như các dự án hỗn hợp nhà ở và kinh doanh thương mại, dịch vụ thuộc diện Nhà nước thu hồi đất cần đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư nhằm kiểm soát địa tô chênh lệch thông qua thu hồi đất giúp Nhà nước có nguồn lực để đền bù, tránh tình trạng mỗi người bị thu hồi đòi một giá khiến dự án trì trệ, kéo dài, có thể áp dụng cơ chế tự thoả thuận để bảo đảm quyền lợi cho người có đất bị thu hồi, đạt sự đồng thuận với chủ đầu tư…

Luật Đất đai và Luật Lâm nghiệp nhiều quy định “vênh” nhau

Luật Đất đai 2013 có hiệu lực từ 1/7/2014. Luật Lâm nghiệp có hiệu lực từ 1/1/2019 quy định nhiều nội dung, khái niệm “lệch pha” so với Luật Đất đai 2013.

Trong khi Luật Đất đai nêu rõ “đất rừng” nhưng không có sự giải thích phân biệt “đất rừng” như thế nào? Cụm từ “đất lâm nghiệp” không được đề cập trong Luật Đất đai. Song, Thông tư 28 lại quy định “đất lâm nghiệp” gồm đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuât…là đánh đồng “đất rừng” với “đất lâm nghiệp”. Luật Lâm nghiệp quy định “đất lâm nghiệp” không chỉ bao gồm đất rừng, mà còn bao gồm đất xây dựng các cơ sở chế biến lâm sản, bởi lâm nghiệp bao gồm quản lí, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng, chế biến và thương mại lâm sản.

Luật Lâm nghiệp quy định đối với khu vực dân tộc thiểu số có “đất tín ngưỡng”, “rừng tín ngưỡng”. Khoản 8, điều 2 Luật Lâm nghiệp quy định “rừng tín ngưỡng” là rừng gắn liền với niềm tin, phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng (ma rừng, rừng thiêng). Trong khi đó, Luật Đất đai quy định đất tín ngưỡng bao gồm đất có các công trình như đình, chùa, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ. Như vậy, khái niệm về tín ngưỡng trong Luật Đất đai rộng rãi hơn.

Luật Lâm nghiệp không quy định rõ về thửa đất, lô rừng, về tiêu chí rừng trồng, phân loại đất, phân loại rừng, quy hoạch sử dụng đất rừng… ảnh hưởng trực triếp đến quá trình hưởng lợi của dân tộc thiểu số mà cuộc sống chủ yếu dựa vào rừng. Điều này hạn chế vai trò “chủ rừng” về vị trí pháp lí. Hiện nay, 90% cộng đồng dân cư dân tộc thiểu số (11.525 cộng đồng) được giao đất rừng và quản lí rừng nhưng không rõ giao bao nhiêu héc-ta. Đồng thời, chủ rừng không có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, góp vốn kinh doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất, quyền quản lí rừng được giao…

Trên cơ sở bất cập gữa Luật Đất đai và Luật Lâm nghiệp, cần quy định rõ và cần đưa “đất lâm nghiệp” vào Luật Đất đai. Mặt khác, Luật Đất đai cũng cần quy định đất lâm nghiệp là đất đang có rừng tự nhiên hoặc đất có rừng trồng đạt tiêu chí rừng, đất đang khoanh nuôi để phục hồi rừng, đất nuôi trồng rừng nhưng chưa thành rừng, đất đang trồng hoặc đã giao, đã cho thuê để trồng rừng và diện tích trong ranh giới các khu rừng đã được quyết định loại rừng theo quy định pháp luật về lâm nghiệp, đất sử dụng cho hoạt động chế biến và thương mại lâm sản. Có nghĩa là đất rừng phải có tên gọi trùng với tên gọi của loại rừng tương ứng và ranh giới thửa đất rừng trong phạm vi rừng được xác định theo quy định của pháp luật lâm nghiệp. Luật Đất đai cũng cần bổ sung đất rừng tín ngưỡng theo quy định của Luật Lâm nghiệp…

Kim Quốc Hoa

Tin liên quan

Cùng chuyên mục

Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn

Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn

Quốc Tử Giám là nơi các Nho sinh, sĩ phu nước ta từ đầu thế kỉ thứ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX làm giàu học vấn. Đây chính là cơ quan quản lí giáo dục triều Nguyễn và là học phủ tối cao của triều đại phong kiến cuối cùng này…
Tri ân những nhà giáo hi sinh vì Tổ quốc

Tri ân những nhà giáo hi sinh vì Tổ quốc

Liệt sĩ nhà giáo có ở hầu hết các vùng, miền của Tổ quốc. Theo thống kê vào năm 2012, trong ngành Giáo dục có 2.219 liệt sĩ nhà giáo. Riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã có hơn 4.000 nhà giáo trên khắp mọi miền đất nước đã lên đường vào miền Nam vừa dạy học, vừa cầm súng chiến đấu và đã có 621 nhà giáo đã anh dũng hi sinh.
Đại đoàn kết - Sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Đại đoàn kết - Sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là yếu tố quan trọng bậc nhất, là cội nguồn sức mạnh để đất nước vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, vượt qua thiên tai dịch bệnh để vững bước tiến lên...
Đạo thầy trò

Đạo thầy trò

Xã hội nào nghề giáo cũng luôn được đánh giá là nghề cao quý nhất và người thầy giáo luôn có vị thế quan trọng. Câu ca dao có từ ngàn xưa: Mồng một tết cha, mồng Hai tết mẹ, mồng Ba tết thầy là nét văn hóa về cách sống, cư xử mà ông cha ta muốn nhắc nhở con cháu.
Ba người thầy góp phần hun đúc hoài bão vĩ đại của Bác Hồ

Ba người thầy góp phần hun đúc hoài bão vĩ đại của Bác Hồ

Ngày 5/6/1911, anh Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Để có được hoài bão vĩ đại này, vai trò của thầy Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), thầy Vương Thúc Qúy (1862-1907), thầy Lê Văn Miến (1874-1943) đối với Người rất quan trọng.

Tin khác

Vinh quang sự nghiệp “Trồng người”

Vinh quang sự nghiệp “Trồng người”
Trong xã hội Việt Nam, người thầy có vị trí đặc biệt, nghề dạy học được coi là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Sinh con và nuôi dưỡng con cái là công ơn trời bể của cha mẹ, nhưng dạy trẻ chóng lớn để trở thành người không chỉ biết chữ mà còn có phẩm cách tốt đẹp, gắn tình yêu thương trong gia đình với tình yêu nước là công lao to lớn của người thầy...

Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam

Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” viết cho báo Sự thật (Pravda) của Liên Xô số ra ngày 1/11/1967, nhân kỉ niệm lần thứ 50 Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, Nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của Nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại… là vô cùng sâu sắc”...

Bác Hồ trên quê hương Lê-nin, tìm đường cứu nước

Bác Hồ trên quê hương Lê-nin, tìm đường cứu nước
Tháng Giêng năm 1924, từ Pa ris đến Mátxcơva, Bác Hồ vào viếng linh cữu Lênin, người bạn vĩ đại của Nhân dân các nước thuộc địa.

Tư tưởng đoàn kết quân dân - một di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tư tưởng đoàn kết quân dân - một di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ ngày thành lập đến nay, Quân đội ta ngày càng trưởng thành, đội ngũ ngày càng vững mạnh, là đội quân tiên phong luôn giương cao ngọn cờ “Bách chiến bách thắng”. Một trong những yếu tố tạo nên điều kì diệu đó chính là thực hiện tốt mối quan hệ cá nước, máu thịt đoàn kết quân-dân.

Tự hào con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển

Tự hào con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển
Ngược dòng thời gian, 63 năm đã đi qua, kể từ ngày “Đường Hồ Chí Minh trên biển” chính thức đi vào hoạt động và lập nên nhiều kì tích của một con đường huyền thoại, khẳng định bước phát triển mới của nghệ thuật chiến tranh Nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Trong đó, quê hương Bến Tre tự hào là nơi “khai sơn, phá thạch” với những con người đầu tiên rẽ sóng, mở ra con đường huyền thoại đó…

Tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời vào tháng 10/1947, với bút danh X.Y.Z. Đây là tác phẩm đầu tiên đặt vấn đề đổi mới trong điều kiện Đảng cầm quyền, là “cẩm nang” cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Tầm nhìn tương lai của trẻ em gái - Nhận thức từ gia đình và cộng đồng

Tầm nhìn tương lai của trẻ em gái - Nhận thức từ gia đình và cộng đồng
Cùng với Ngày Quốc tế Phụ nữ (8/3) dành để tôn vinh người phụ nữ, Ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10) được kỉ niệm để nêu bật vai trò quan trọng của một nửa thế giới, kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực để bảo đảm tương lai của các em, phát huy sức mạnh của các trẻ em gái trong quá trình xây dựng một thế giới bền vững…

Phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước

Phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi”.

Thiêng liêng hai tiếng “Đảng ta”

Thiêng liêng hai tiếng “Đảng ta”
Đó là tiếng nói của Nhân dân ta dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai tiếng mộc mạc, ngắn gọn mà hàm chứa cả nhận thức sâu sắc qua thực tiễn và tình cảm sâu đậm của trái tim hàng chục triệu người Việt Nam…

Phải luôn học tập và làm theo đạo đức tiết kiệm của Bác Hồ

Phải luôn học tập và làm theo đạo đức tiết kiệm của Bác Hồ
Trong suốt cuộc đời mưu sống và hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như làm phụ bếp trên tầu buôn, làm thợ sửa ảnh, sống bất hợp pháp ở một nước tư bản, hoạt động cách mạng bí mật trong nước cho đến khi làm chủ tịch nước ta, Bác Hồ vẫn giữ nếp sống như khi còn khó khăn, thiếu thốn...

Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đời sống mới

Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đời sống mới
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lời Các Mác: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi” và lời V.I.Lênin: “Đảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công”. Kết quả phụ nữ là lực lượng hùng hậu, đóng góp lớn vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên

Khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên
Công tác tham mưu của đội ngũ cán bộ các cấp đóng vai trò then chốt để tổ chức Đảng, người lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Tuy nhiên, hiện nay có hiện tượng một số cán bộ đùn đẩy, né tránh, sợ sai, sợ trách nhiệm, triệt tiêu sức sáng tạo, nhiệt huyết và lòng can đảm trong công tác.

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh. Đây là hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ khi thành lập đến tháng 3/1935, Hội Phản đế Đồng minh đã có nhiều đóng góp quan trọng cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Huy hiệu Bác Hồ - phần thưởng lớn nhất của đời tôi

Huy hiệu Bác Hồ - phần thưởng lớn nhất của đời tôi
Đã tròn 70 năm trôi qua, nhưng cứ đến ngày 10/10 hằng năm, ngày Giải phóng Thủ đô, cả gia đình tôi cảm nhận vô cùng hạnh phúc, vì Thủ đô giải phóng tôi được về Hà Nội và mới có được một niềm vinh dự lớn lao nhất trong cuộc đời ở đây.

Công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam

Công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Trong tác phẩm “Dân vận” viết ngày 15/10/1949, đăng trên Báo Sự thật số 120, Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”.
Xem thêm
Phiên bản di động