Từ thầy giáo trường làng quê nhãn Hưng Yên, Hoàng Kim Đáng tham gia quân đội, trở thành người chiến sĩ trên tuyến lửa Trường Sơn từ những năm đầu cuộc chiến tranh chống Mỹ. Ông là một trong những phóng viên nhiếp ảnh gắn bó với tờ báo “Trường Sơn gang thép” từ những ngày đầu. Ông kể: “Ngoài tôi còn có phóng viên Trọng Khoát, Cao Cân và nữ phóng viên Phạm Thị Ngọc Huệ”.
|
Nhà báo liệt sĩ Phạm Thị Ngọc Huệ |
Nhà thơ, Đại tá Trọng Khoát, nguyên phóng viên Báo Trường Sơn, cán bộ phòng Tuyên huấn, Cục Chính trị Đoàn 559, (người tham gia viết báo từ thời kì đầu của Báo Trường Sơn là tờ “Hoa Thắm Trường Sơn”), có nhiều kỉ niệm và kể về nữ phóng viên duy nhất của Báo Trường Sơn là Phạm Thị Ngọc Huệ, với lòng cảm phục, mến thương và tiếc nuối cho sự hi sinh của nữ phóng viên.
Đại tá Trọng Khoát kể: “Một lần, tôi và phóng viên Cao Cân về Binh trạm 36, chúng tôi gặp và phát hiện năng khiếu làm báo của Ngọc Huệ, nên xin chỉ huy Binh trạm cho cô về Báo Trường Sơn.
Trước khi trở thành phóng viên, Ngọc Huệ sống cùng Đại đội Thanh niên xung phong Ninh Bình, trong đội hình 7.500 đội viên tham gia mở Đường 20, nối Đường 15A từ Phong Nha (Quảng Bình) đi cửa khẩu Lùm Bùm, cô luôn có mặt ở tuyến khó khăn nhất.
Sau ngày thông Đường 20 Quyết Thắng, không chịu ở lại hậu phương, Ngọc Huệ xin vào phân đội bảo đảm giao thông thuộc Binh trạm 36…
Ngọc Huệ là cô gái thông minh và tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ, cô ấy bỏ giảng đường đại học, viết thư bằng máu để tình nguyện đến chiến trường.
Những tháng đầu về làm Báo Trường Sơn, Ngọc Huệ được giao đi nhà in sửa lỗi từng bài viết, từng trang báo trước khi in. Công việc này giúp cô học được cách viết báo hiệu quả và trưởng thành nhanh nhất. Báo in xong, việc phát hành cũng do Ngọc Huệ gói ghém cẩn thận, gánh bộ ra tận trạm đón xe vận tải nhờ cánh lái xe chuyển vào tuyến trong, chuyển ra tuyến ngoài tới hầu hết các binh trạm, đơn vị độc lập. Khi được được phân công viết tin, bài, Ngọc Huệ không chỉ đến binh trạm lấy tài liệu, mà còn xông xáo ra tận trọng điểm, gặp gỡ những gương mặt anh hùng, như chiến sĩ lái xe Lê Bá Kiệm, lái máy húc Vũ Tiến Đề, Tiểu đoàn công binh 25. Cô còn tới tận trận địa Trung đoàn phòng không 224 ở Tha Mê, La Trọng, Khe Tang, tường thuật sinh động những trận đánh tiêu diệt máy bay Mỹ. Những bài viết: “Hoa trắng Trường Sơn”, “Trường Sơn gang thép”, của Ngọc Huệ đã động viên người chiến sĩ chiến đấu và phục vụ chiến đấu dọc tuyến đường.
Là người phát hiện và đưa Ngọc Huệ về làm phóng viên Báo Trường Sơn, nhà báo, nhà thơ Trọng Khoát, còn là người chứng kiến sự anh dũng hi sinh của nữ phóng viên. Ông kể: Hôm đó trong chuyến công tác cùng đoàn Văn công Trường Sơn xuống đơn vị, lúc đó vào 6 giờ 20 phút ngày 20/12/1971, trên đường vượt trọng điểm Ca Tốc, dưới đỉnh Pu Khao, cách cửa khẩu Lùm Bùm không xa, vướng một trái mìn do máy bay Mỹ thả hôm trước, Ngọc Huệ anh dũng hi sinh. Di vật còn lại của nữ phóng viên để lại là cuốn sổ ghi chép tư liệu và tập bản thảo viết về điển hình trạm sửa chữa xe máy Trường Sơn.
Ngọc Huệ hi sinh trên cáng cứu thương, khi đồng đội đưa chị về đội phẫu thuật Tiền phương ở km 20. Vĩnh biệt Ngọc Huệ, ở nghĩa trang đội điều trị đoàn bộ, nhà thơ Trọng Khoát đã đọc bài thơ đầy nước mắt Nằm yên em nhé ngủ ngon/ Để cho đầu cáng anh còn trở vai/ Đường xa dốc đứng suối dài/ Vai anh: Đòn nghiến, phồng… chai… lại phồng/ Đường vào trạm xá loanh quanh/ Em ơi đừng vĩnh biệt anh giữa đường…/ Lời thương đồng đội lời thương/ Những ai nằm lại chiến trường hôm nay…
Đại tá Trọng Khoát không ngờ 20 năm sau, cuối năm 1992, ông nhận được lá thư của một chiến sĩ công binh từ Yên Bái gửi về cho ông, kèm theo bài thơ ông viết tặng liệt sĩ Ngọc Huệ (bài thơ này được chôn trong lọ penicillin cùng mảnh giấy ghi địa chỉ ngày sinh, ngày mất và mộ chí của liệt sĩ Ngọc Huệ). Thì ra, theo tháng năm đất mộ sạt lở, lọ penicillin trôi theo dòng nước và đọng lại ở khúc suối cạnh rừng, đến khi có người chiến sĩ công binh Trường Sơn lượm được chiếc lọ này và gửi lại bài thơ cho Đại tá Trọng Khoát. Còn phần mộ thì đến nay gia đình vẫn chưa tìm được để đưa hài cốt liệt sĩ về quê hương.
Nghiêm Thị Hằng