Người thả hoa trên sông Thạch Hãn
Văn hóa - Thể thao 25/07/2018 10:18
Năm nay ông 65 tuổi, là một cựu chiến binh (CCB) không chỉ nổi tiếng với trận đánh trên đồi thám báo năm 1971 và 81 ngày đêm tại Thành cổ Quảng Trị, mà còn là người thổi hồn trên sông Thạch Hãn với lung linh sắc màu hoa đăng, nhang khói. Đó là nhà báo, thương binh, CCB Lê Bá Dương…
Năm 1968, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào thời kì ác liệt nhất, mới 15 tuổi, nhưng Lê Bá Dương vẫn xung phong lên đường nhập ngũ, chiến đấu đến năm 1975, sau đó vào Khánh Hòa, tiếp tục cầm súng và cầm bút cho đến ngày nghỉ hưu thì chuyển sang cầm bút chuyên nghiệp.
Ông có nhiều năm làm phóng viên, Phó và Trưởng Văn phòng đại diện báo Văn hóa. Năm 2017, ông được mời làm đại diện cho 2 tờ tạp chí ở Hà Nội là Văn hiến và Di sản. Dù đi đâu và làm gì thì hơn bốn chục năm nay cứ đến dịp 27/7, ông lại khăn gói về Quảng Trị tham gia nhiều chương trình tưởng nhớ đồng đội, trong đó có lễ thả hoa, nhang nến trên dòng sông Thạch Hãn, nơi “Đáy sông còn đó bạn tôi nằm”.
Mưa nguồn Thạch Hãn nhuộm hồng.
Vào ngày này, hễ ai đi qua Quảng Trị vào giấc chiều sẽ thấy trên các dòng sông nhiều bè hoa, khói nhang lan tỏa, nối hai cõi âm dương. Khác với hoa đăng của lễ Vu Lan, lễ hoa đăng trong đêm 27/7 dương lịch là sự tưởng nhớ đồng bào, chiến sĩ hi sinh trong cuộc chiến đấu giải phóng đất nước, quê hương. Ngày đầu chỉ có dòng Thạch Hãn, nhưng bây giờ đã lan tỏa đến nhiều dòng sông khác ở Quảng Trị, tạo thêm một tập quán thiêng liêng trong tháng Bảy.
Một điều ít ai biết là việc thả hương, hoa trên sông được Lê Bá Dương nung nấu từ khi còn chiến tranh. Năm 1968, sau đợt công tác ra Quân khu 4, Lê Bá Dương được nghỉ một tuần phép. Ông về quê, đến thăm mẹ của người bạn học và là đồng đội mới hi sinh trong một trận đánh ác liệt tại xã Gio An, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Trận đó một Tiểu đoàn, thuộc Trung đoàn Nghệ An Đỏ của quân giải phóng đối mặt với 4 thiết đoàn xe tăng ngụy và hai tiểu đoàn bộ binh Mỹ. Cuộc đọ sức chênh lệch cả về quân số và trang bị vũ khí, khí tài nhưng phần thắng thuộc về những người lính giải phóng, tuy nhiên 13 chiến sĩ của ta trong đó có người bạn của ông đã hi sinh và bị địch dùng xăng đặc đốt cháy thi thể. Hôm ông đến thăm, mẹ người đồng đội ấy đang bệnh. Cụ nghẹn ngào: "Chưa có giấy báo tử, nhưng linh tính cho mẹ biết, con mẹ đã hi sinh. Thôi thì nơi mũi tên, hòn đạn phải vậy con ạ! Không con của mẹ này thì cũng con mẹ khác. Chỉ mong, sau ngày hòa bình, thống nhất mẹ vẫn còn sống để đưa nó về với tổ tiên, ông bà cho ấm cúng". Nói xong, người mẹ đến bên bàn thờ đốt mấy nén nhang, chậm rãi ra bờ ao, hướng về phương Nam vái trời, khấn phật, rồi ngồi sụp xuống cắm nhang vào bờ ao, ngắt mấy bông bụt bên hàng rào thả xuống mặt nước, nghẹn ngào: "Không biết mẹ có sống được đến ngày đó để đón con về? Thôi thì nhờ tổ tiên, ông bà phù hộ độ trì, che chở linh hồn con. Mẹ gửi cho con chút hương, hoa. Ở chốn âm cung, con có linh thiêng thì nhận lời cho lòng mẹ thanh thản".
Cử chỉ và lời nói của mẹ, như đôi cánh nâng bước Lê Bá Dương đi hết cuộc chiến tranh. Năm 1975, sau ngày giải phóng, trở về thăm quê, biết tin người mẹ ấy đã qua đời, ông đến thắp cho mẹ và người đồng đội nén nhang. Trước khi về đơn vị, ông một mình lặng lẽ trở lại chiến trường xưa, tha thẩn trong hoàng hôn trên cao điểm 56, nghĩ về một chiều ảm đạm mùa mưa năm 1968, nơi cây đa Gia Bình, nhiều đồng đội đã hi sinh. Chiều ấy, những đồng đội còn lại của đơn vị gạt nước mắt gỡ trên thân cây đa từng mảnh thân mình đồng đội. Chẳng còn nhận biết được xương thịt của ai, tất cả những gì còn lại của 7 con người thân yêu được xếp trong một gói nhỏ chôn xuống lòng đất Gia Bình, hoà trong đất mẹ Việt Nam. Lại một chiều khác giữa tháng 6/1969, tại sườn Nam cao điểm 333, cả đại đội của ông “ôm trọn” một loạt bom B52 rải thảm. Đơn vị gần 70 người, chỉ còn lại 6.
Nỗi buồn vì sự mất mát hi sinh ấy đã thôi thúc ông phải làm một điều gì đó ý nghĩa để tưởng nhớ những đồng đội của mình và từ những cánh hoa trên ao nhà người mẹ liệt sĩ ở quê nhà đã giúp ông có ý tưởng rõ ràng hơn
Nguyễn Xuân