Huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam: Đất của dân bỗng dưng thành đất... của xã!?
Pháp luật - Bạn đọc 20/06/2019 09:34
Nguồn gốc đất
Ông Cần cho biết, gia đình ông có thửa đất ao, diện tích 540m2, thuộc thửa số 327, tờ bản đồ số 4, do ông cha để lại, có nguồn gốc từ trước năm 1952. Năm 1960, Nhà nước thành lập HTX nông nghiệp. Tại Thông tư số 449/TTg ngày 17/12/1959 của Thủ tướng Chính phủ, quy định về Điều lệ HTX nông nghiệp bậc thấp, Điều 2 quy định: Xây dựng HTX trên 3 nguyên tắc “tự nguyện, cùng có lợi và quản lí dân chủ”; Điều 1 nêu: Đồng thời xã viên đóng góp ruộng đất, trâu bò, nông cụ: “Xã viên vẫn có quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và được hưởng một phần hoa lợi về những thứ đó; Điều 9 quy định: “... Những ao nhỏ, những cây cối lẻ tẻ hoặc diện tích tương đối lớn... nhưng không ảnh hưởng đến sản xuất của HTX, thì để lại cho xã viên kinh doanh và hưởng lợi riêng”. Theo đó, các hộ xã viên không đưa đất ao vào HTX, gia đình ông Cần cũng vậy.
Báo cáo số 06/BC-UBND ngày 12/4/2018 của UBND xã Nhật Tân, về việc trả lời đơn thư của ông Cần, tại mục 1 về nguồn gốc đất cũng nêu rõ: Theo Biên bản xác minh ngày 9/3/2018 của tổ công tác UBND xã Nhật Tân, đối với một số hộ dân trước đây có đất tại vị trí trên cho biết: Thửa đất ao này trước đây có nguồn gốc đất của cá thể, của các hộ: Cụ Trần Đình Ích, cụ Nguyễn Thị Tộ, cụ Nguyễn Phi Hoạt, cụ Trần Đình Nghiếp, cụ Lê Thị Thông (mẹ ông Cần). Cũng tại thửa đất ao này, ngày 10/5/1986, gia đình ông Cần được UBND huyện Kim Bảng cấp Giấy chứng nhận tạm thời sử dụng đất (GCNTTSDĐ) số 2086 GCN/ĐK, đứng tên cụ Lê Thị Thông.
Tuy nhiên, các văn bản trả lời của UBND xã Nhật Tân và UBND huyện Kim Bảng lại cho rằng, gia đình ông Cần tự nguyện vào HTX và giao phần đất ao này cho HTX Nhật Tân. Sau khi HTX Nhật Tân giải thể, giao lại cho UBND xã Nhật Tân quản lí từ đó đến nay.
Chính quyền làm sai, dân phải chịu!?
Công văn số 09 ngày 13/10/1999 của Phòng Địa chính huyện Kim Bảng cho rằng: “Về hồ sơ địa chính lập năm 1987, trên bản đồ giải thửa xã Nhật Tân tỉ lệ 1:2000; Sổ mục kê ruộng đất, Sổ đăng kí ruộng đất 5a và Sổ đăng kí ruộng đất 5b, cụ Lê Thị Thông không có tên được sử dụng 540m2 đất ao (đây là hệ thống hồ sơ gốc để công nhận quyền sử dụng đất của tập thể và cá nhân).
Về hiện trạng sử dụng đất, thửa số 327, tờ bản đồ số 4b, diện tích 540m2, đất ao, thực tế không có, chỉ có thửa số 327, tờ bản đồ 4b, diện tích 3.560m2 đất ao, đứng tên HTX Nhật Tân (theo bản đồ năm 1986) và HTX Nhật Tân đã sử dụng từ những năm 1960 để kinh doanh thả cá. HTX Nhật Tân đã cho ông Vũ Văn Tứ thầu khoán diện tích ao trên. Gia đình ông Tứ đã sử dụng diện tích ao trên vào kinh doanh thả cá và đóng góp nghĩa vụ theo hợp đồng thầu cho HTX, nay là UBND xã Nhật Tân. Gia đình ông Tứ và UBND xã Nhật Tân không phải đền bù, hoặc giao nộp một thứ sản phẩm nào cho gia đình bà Thông và những hộ khác, có thả rau bèo trên mặt nước của diện tích ao...”.
Về GCNTTSDĐ do ông Trịnh Quốc Ý, Chủ tịch UBND huyện Kim Bảng kí, gia đình ông Cần được sử dụng 540m2 đất ao, Phòng Địa chính huyện Kim Bảng lại “đổ lỗi” cho công tác chuyên môn rà soát không chặt chẽ, dẫn đến tình trạng cấp GCNTTSDĐ không đúng theo hồ sơ gốc.
Bức xúc trước việc khiếu nại rất nhiều năm, nhưng không đòi được đất, ngày 30/12/1998, ông Cần làm đơn khởi kiện tới TAND huyện Kim Bảng. Tuy nhiên, lại bị TAND huyện Kim Bảng ra quyết định: Bác đơn yêu cầu khởi kiện của gia đình ông Cần, đòi diện tích đất ao 540m2 đối với gia đình ông Tứ và UBND xã Nhật Tân; kiến nghị UBND xã Nhật Tân truy thu khoản tiền đối với diện tích đất bờ ao của gia đình ông Cần đang sử dụng từ năm 1960 cho đến nay. Thu hồi diện tích đất 43,2m2 và 1,2 chỉ vàng gia đình ông Cần đã nhận khi chuyển nhượng đất cho gia đình bà Liên để xung quỹ ngân sách xã và ông Cần phải nộp áp phí theo quy định.
Ngày 2/1/1999, ông Cần có đơn kháng cáo gửi TAND tỉnh Hà Nam, đề nghị ông Tứ và UBND xã Nhật Tân trả lại 540m2 đất ao cho gia đình. Theo Bản án số 17/DSPT ngày 10/4/1999 của TAND tỉnh Hà Nam, HĐXX nhận định, theo tài liệu điều tra đã thu thập được, vào thời điểm trước năm 1960, gia đình ông Cần có thửa đất ao diện tích 540m2, nguồn gốc đất do ông cha để lại... Tuy nhiên, TAND tỉnh Hà Nam căn cứ Thông tư số 02/TTLT ngày 28/7/1997 của TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao và Tổng cục Địa chính và cho rằng, sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Trường hợp này thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính, cụ thể là UBND các cấp. Vì vậy, cần phải đình chỉ vụ kiện tranh chấp đất giữa ông Cần và ông Tứ, UBND xã Nhật Tân, giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm. Cấp sơ thẩm cần giải thích, hướng dẫn cho đương sự kiện đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Từ đó, ông Cần tiếp tục hành trình gửi đơn đến các cơ quan chức năng của tỉnh Hà Nam. Thế nhưng, các công văn trả lời gia đình ông của UBND huyện Kim Bảng và UBND xã Nhật Tân, đều cho rằng: Năm 1960, hưởng ứng phong trào hợp tác hóa, gia đình ông đã tự nguyện vào HTX, giao phần đất ao trên cho tập thể quản lí... Theo Sổ đăng kí ruộng đất, Bản đồ địa chính từ năm 1987 trở lại đây, không có tên ai trong gia đình ông, nên phần diện tích đất ao không phải của gia đình.
Đề nghị trả lại đất và cấp sổ đỏ
Điểm b, Khoản 1, Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ), quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất: GCNTTSDĐ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp, hoặc có tên trong Sổ đăng kí ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15/10/1993”.
Từ phản ánh trên, Báo Người cao tuổi đề nghị UBND tỉnh Hà Nam chỉ đạo UBND huyện Kim Bảng, cần trả lại đất và cấp sổ đỏ cho gia đình ông Cần.
Báo Người cao tuổi sẽ tiếp tục thông tin tới bạn đọc.