Bảo tồn văn hóa Thái qua những trang sách cổ
Tin tức 16/06/2018 10:48
Chẳng hạn như ở huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa, có khoảng 7 vạn người Thái nhưng chỉ còn 20 người biết chữ Thái, trung bình mỗi xã chỉ có từ 1 người đến 3 người biết mặt chữ. Suốt mấy chục năm qua có một nhà giáo vẫn lặng lẽ đi về giữa các bản mường để sưu tầm những trang sách hay, những tư liệu quý, mang đậm bản sắc văn hóa Thái để nghiên cứu, biên soạn thành tài liệu được viết bằng chữ Thái, với mong muốn góp phần lưu giữ và giới thiệu một giá trị văn hóa dân tộc Thái. Ông tên là Hà Nam Ninh.
Năm 1985, khi còn là thầy giáo “cắm bản”, ông Ninh đã học chữ Thái. Mười năm sau, khi chuyển sang làm công tác dân vận của huyện Bá Thước, ông mới có điều kiện và thời gian đi sâu tìm hiểu chữ viết, tiếng nói và bắt đầu biên soạn những tài liệu về văn hóa của đồng bào Thái. Khi đã nghỉ hưu, ông chuyên tâm dành toàn bộ thời gian cho công việc này. Trong quá trình tìm hiểu, ông Ninh phát hiện ra những tư liệu lịch sử rất quý và đặc biệt quan trọng bằng tiếng Thái, được viết bằng chữ Thái, như: Văn khế địa giới đất đai giữa các bản, các tổng; lịch sử hình thành cộng đồng dân cư làng xã; thần phả và những câu chuyện về nhân vật lịch sử có công; các thống kê đinh điền, sản vật, thuế má... Riêng trong lĩnh vực văn học thì rất phong phú, đặc biệt là những sáng tác thơ, truyện thơ, chuyện kể về các sự tích... kèm theo một số đoạn thơ được diễn nôm và đan xen giữa văn xuôi, văn vần. Ngoài ra còn một số chuyện kể của người Lào, người Chăm, sách Kinh thánh bằng chữ Thái, những kiến thức về nông lịch, làm nhà cửa, thầy thuốc... Đặc biệt, người Thái có một hệ thống sách dạy “đạo làm người” viết dưới dạng tục ngữ và dân ca.
Chữ Thái là sự kết hợp đặc trưng của chữ tượng hình và tượng thanh nhưng ở mỗi vùng lại có cách viết khác nhau. Tùy nét chữ, mẫu chữ ở nơi này, nơi khác do người này, người khác viết sẽ có sự lệch nhau, nên việc tìm hiểu để tập hợp lại, nhận dạng và đi đến thống nhất mẫu tự chung là việc làm hết sức cần thiết. Ví dụ như chữ Thái ở Thanh Hóa và chữ Thái ở Tây Bắc có cùng một gốc nhưng theo thời gian, chữ viết có sự biến dạng và sai lệch do cách viết tay. Cần phải thống nhất kiểu chữ Thái của Việt Nam để cộng đồng người Thái trên cả nước đều có thể sử dụng trong việc đọc sách, viết chữ và giao tiếp. Năm 2007, ông Ninh tham gia dự án “Bảo tồn tri thức các dân tộc thiểu số Việt Nam” và thống nhất bộ chữ Thái của Việt Nam bằng cách lấy chữ Thái đen (Tây Bắc) làm cơ sở để bổ sung, tiếp nhận những tinh hoa của chữ Thái ở các địa phương khác, biên soạn lại và đưa vào giảng dạy cho cán bộ và Nhân dân. Thành quả đầu tiên trong quá trình nghiên cứu của ông là tài liệu “Bộ chữ Thái Thanh Hóa”. Đây là sự kết hợp giữa việc vừa dạy học vừa làm tài liệu theo cách “cần đến đâu thì làm tới đó”. Những ngày đầu lên lớp, ông dạy đến bài nào thì soạn giáo án bài đó. Sau này ông xâu chuỗi lại theo trình tự từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, chỗ nào thấy chưa ổn thì “gia công” cho gọn gàng và bộ tài liệu thiên về tìm hiểu bản chất của các quy tắc chuẩn ngữ âm, ngữ pháp và phương pháp sư phạm dùng cho các lớp dạy chữ Thái ra đời.
Trong quá trình tiếp thu bộ chữ Thái của Việt Nam, ông Hà Nam Ninh còn làm chủ biên bộ tài liệu “Dạy chữ Thái Việt Nam tại Thanh Hóa”, dày hơn 100 trang được ngành văn hóa nghiệm thu và đưa vào sử dụng. Ngoài việc dạy trọn vẹn chương trình chữ Thái, tài liệu này còn giúp học viên tự so sánh, rút ra những điểm giống và khác nhau giữa chữ Thái Thanh Hóa và chữ Thái Việt Nam. Ông Ninh cũng tham gia phối hợp với Sở Nội vụ chỉnh sửa tài liệu “Dạy tiếng dân tộc cho cán bộ công tác vùng cao”. Tài liệu này do Bộ Nội vụ chỉ đạo tỉnh Yên Bái làm, lấy chữ Thái Mường Lò làm gốc và dùng chữ Thái Tây Bắc để ghi âm, nhưng về Thanh Hóa thì phải chỉnh sửa cho phù hợp với địa phương, vì tiếng Thái Thanh Hóa có nhiều âm khác với tiếng Thái Tây Bắc.
Ngoài ra, ông còn tham gia giảng dạy 5 lớp tiếng Thái, trong đó có 3 lớp do Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thanh Hóa tổ chức để dạy tiếng Thái cho giáo viên học trong dịp hè. Ông còn tham gia dạy tự nguyện tiếng Thái cho một lớp học theo kiểu “bình dân học vụ” vào ban đêm của đội ngũ cán bộ huyện Bá Thước. Không chỉ thu thập, lưu giữ và biên soạn những tài liệu quý mà ông còn cung cấp và chia sẻ tư liệu, tham gia giới thiệu trong một số công trình nghiên cứu của người khác. Theo ông, đây là vốn chung của cộng đồng, vốn quý của dân tộc chứ không phải vốn riêng của mình nên càng giới thiệu cho nhiều người biết thì càng tốt. Một số tư liệu nghiên cứu về chữ Thái cũng được ông tặng Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa và Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Giáng Tiên