Một số vấn đề đặt ra khi Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh
Hoạt động hội 25/09/2020 08:00
Tuy nhiên, già hóa dân số sẽ làm cho gánh nặng về kinh tế - xã hội gia tăng nếu ở quốc gia đó không có những bước chuẩn bị và thực hiện các chiến lược, chính sách để chủ động thích ứng.
Hiện nay già hóa dân số đang là một vấn đề mang tính toàn cầu, mang đến sự chuyển biến xã hội rất mạnh mẽ, có ảnh hưởng tới toàn bộ các thành phần trong xã hội, thay đổi về thị trường lao động và tài chính, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ như: Nhà ở, giao thông, an sinh xã hội, cấu trúc gia đình và quan hệ giữa các thế hệ. Việt Nam là một trong những quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình nhưng lại là một quốc gia có tốc độ già hóa rất nhanh và thời gian chuyển từ già hóa sang già ngắn hơn so với nhóm các nước phát triển. Đến nay NCT (từ 60 tuổi trở lên) chiếm 11,86% dân số và dự kiến đến 2030 sẽ là 18% dân số. Trong lúc nguồn tích lũy cho an sinh xã hội, cho nhóm yếu thế trong đó có NCT còn thấp so với các nước phát triển. Do vậy, các nhà hoạch định chính sách cần chủ động, sớm có chủ trương, chính sách thích ứng với vấn đề già hóa đang đặt ra cho chúng ra nếu không chủ động từ bây giờ sẽ lúng túng và khó khăn về an sinh xã hội những năm sau 2030.
Chủ tịch Phạm Thị Hải Chuyền trao Bằng khen TƯ Hội cho các cá nhân |
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách đối với NCT. Ban Bí thư có Chỉ thị 59/CT-TW về chăm sóc người cao tuổi: "Việc chăm sóc đời sống vật chất tinh thần NCT là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, Nhà nước cần dành ngân sách để giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề chăm sóc NCT". Hiến pháp năm 2013 tại khoản e Điều 37 quy định: "NCT được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ tổ quốc. Luật NCT ra đời 2009 cũng đã thể hiện rõ về tinh thần này, có quy định về chăm sóc, có quy định về phát huy vai trò NCT. Chính phủ năm 1995 đã cho phép thành lập Hội NCT, thành lập Ủy ban Quốc gia về NCT, có Chương trình hành động quốc gia về NCT các giai đoạn: 2005 - 2010, 2012 -2020. Trong đó xác định rõ 9 hoạt động chủ yếu: 1) Hoạt động phát huy vai trò NCT; 2) Hoạt động chăm sóc sức khỏe; 3) Hoạt động chăm sóc đời sống văn hóa tinh thần; 4) Hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan đến NCT; 5) Hoạt động nâng cao đời sống vật chất; 6) Hoạt động xây dựng và nhân rộng chăm sóc phát huy vai trò NCT dựa vào cộng đồng; 7) Hoạt động phát triển các cơ sở chăm sóc và nhà ở đối với NCT; 8) Hoạt động đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ; giám sát đánh giá nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến NCT; 9) Hoạt động chủ động chuẩn bị cho tuổi già và quyết định lấy tháng 10 hằng năm là "Tháng hành động vì NCT Việt Nam". Một số Luật có đề cập đến NCT như: Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe Nhân dân, Bộ luật Lao động…
Bằng những chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước cùng với việc triển khai thực hiện ở các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương đã giúp cho NCT có cuộc sống tốt hơn, quyền của NCT được bảo đảm đáp ứng nguyện vọng của NCT, tạo điều kiện để NCT được phát huy khả năng của mình giúp đỡ cho con cháu cũng như đóng góp cho xã hội. Đánh giá về vai trò NCT và trách nhiệm của gia đình xã hội về NCT có bước chuyển biến tích cực.
Chủ tịch Phạm Thị Hải Chuyền trao Kỉ niệm chương Vì sự nghiệp chăm sóc và phát huy vai trò NCT cho lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh có nhiều đóng góp. |
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong hoạch định chính sách, trong chăm sóc và phát huy vai trò NCT, trong thực hiện các chính sách của Đảng, Nhà nước đối với NCT vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra buộc chúng ta phải có hành động kịp thời để Việt Nam chủ động hơn trong thích ứng với già hóa dân số trong giai đoạn tới đó là:
Thứ nhất: Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam là 75,6 tuổi, song số NCT sống thọ khỏe mạnh không cao (66 tuổi). Trung bình một NCT mắc 3 bệnh mãn tính. Là một trong nhóm các nước đang phát triển, Việt Nam “già trước khi giàu”; NCT Việt Nam chủ yếu sống ở vùng nông thôn, chủ yếu làm nông nghiệp. Hầu hết họ đều gặp khó khăn về cuộc sống và không có điều kiện chăm sóc sức khỏe; đa phần NCT không có tích lũy vật chất cho tuổi già, sống phụ thuộc vào con cháu; trên 40% NCT Việt Nam đang phải tự lao động, trong khi điều kiện diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, chỉ có khoảng hơn 20% NCT sống bằng lương hưu hoặc trợ cấp xã hội; số NCT có bảo hiểm xã hội, hưởng chính sách ưu đãi, người có công và bảo hiểm xã hội dưới 50%. Mức trợ cấp bảo trợ đối với NCT thấp 270.000đồng/tháng, chỉ bằng 38,6% chuẩn nghèo ở nông thôn và 30% chuẩn nghèo ở thành thị. Nếu NCT vào Trung tâm bảo trợ xã hội được hưởng mức hệ số 2 là 540.000đồng/tháng.
Thứ hai: Nhận thức về vị thế của NCT và trách nhiệm xã hội đối với NCT; những thách thức về an sinh xã hội khi bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh chưa thật đầy đủ, còn bộ phận coi nhẹ vấn đề này nên chưa có sự đầu tư thỏa đáng trong hoạch định chính sách cũng như trong tổ chức thực hiện. Hiện nay các chính sách của Việt Nam vẫn chủ yếu nhằm hỗ trợ và giải quyết các vấn đề của NCT, chưa có một hệ thống chính sách tiếp cận toàn diện hơn về già hóa dân số. NCT vẫn còn bị phân biệt đối xử, hạn chế trong tiếp cận thông tin, dịch vụ tài chính, cơ hội tập huấn, đào tạo nghề, việc làm. Phần lớn NCT đang làm nhiều công việc khác nhau, từ sản xuất cho tới nội trợ, chăm sóc con cháu… thông thường họ làm những công việc ít được xã hội ghi nhận và không được trả công nên dẫn đến suy nghĩ rằng người cao tuổi sống phụ thuộc vì không tạo ra thu nhập. Ngoài ra vẫn còn tình trạng NCT bị lạm dụng, bỏ rơi, bị bạo lực.
Thứ ba: Phần tích lũy xã hội cho lĩnh vực an sinh xã hội còn khiêm tốn so với nhu cầu, nên chính sách trợ giúp cho nhóm yếu thế trong đó có NCT còn thấp, vì vậy cuộc sống của NCT cô đơn, NCT nghèo, NCT sống phụ thuộc vào con cháu gặp nhiều khó khăn; số NCT không có chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc cao, khoảng 60%; cơ chế để tham gia bảo hiểm tự nguyện có sự bảo lãnh và hỗ trợ của Nhà nước thấp, chưa thu hút được nhiều người tham gia BHXH tự nguyện để khi về già Nhà nước không phải trợ cấp xã hội (hiện nay có khoảng 1,65 triệu NCT nhận trợ cấp xã hội).
Thứ tư: Việc triển khai thực hiện Luật NCT và chính sách đối với NCT chưa được nghiêm túc đầy đủ như:
- Việc lập danh sách theo dõi sức khỏe, tư vấn sức khỏe, khám định kì cho NCT ít nhất mỗi năm một lần tại Trung tâm y tế xã ở nhiều địa phương không thực hiện được do không có kinh phí.
- Người cô đơn không nơi nương tựa, NCT nghèo khó khăn có nhu cầu vào Trung tâm bảo trợ xã hội công lập, song các cơ sở này chỉ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu. Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cả nước có khoảng 10.000 NCT được nuôi dưỡng tại các Trung tâm bảo trợ xã hội.
- Chủ chương xã hội hóa các cơ sở bảo trợ xã hội, Trung tâm chăm sóc NCT đã có song chính sách về đất, thuế, vay vốn ưu đãi chưa đủ rõ, chưa huy động được các doanh nghiệp tham gia. Giá dịch vụ ở các cơ sở bảo trợ xã hội, Trung tâm chăm sóc NCT ngoài công lập do tổ chức, cá nhân thành lập, quản lí dao động từ 5 triệu đến 20 triệu đồng/tháng, với mức giá này nhiều NCT có nhu cầu nhưng không có khả năng tài chính để tham gia.
- Hoạt động văn hóa, xã hội tại cộng đồng là nhu cầu của NCT, tạo cho họ có cuộc sống vui, khỏe, song thiết chế văn hóa cộng đồng tại khu dân cư tạo môi trường để NCT được sinh hoạt, tư vấn, giao lưu chưa được quy định cụ thể, rất thiếu.
- Một số cơ quan Nhà nước các cấp có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình thực hiện chương trình hành động quốc gia về NCT và các chế độ chính sách đối với NCT chưa làm tốt, nên một số chỉ tiêu, chương trình quốc gia về NCT chưa đạt.
- Một số địa phương chưa quan tâm đến Hội NCT và xây dựng Quỹ Chăm sóc và Phát huy vai trò NCT ở cơ sở; theo đó có địa phương bố trí cán bộ làm Chủ tịch Hội NCT xã, phường, thị trấn không phải là hội viên Hội NCT. Việc thành lập, quản lí Quỹ Chăm sóc và Phát huy vai trò NCT ở cơ sở chưa đúng theo hướng dẫn của Chính phủ; nhiều địa phương chưa hỗ trợ kinh phí cho hoạt động của Hội NCT theo quy định của Luật NCT.
Từ thực trạng về già hóa dân số của Việt Nam hiện nay và những vấn đề bất cập nêu trên, để chủ động thích ứng với vấn đề già hóa dân số của Việt Nam, chúng ta phải tập trung vào giải quyết một số nội dung sau:
1. Luật NCT đã thực hiện trên 10 năm, tuy đạt được nhiều kết quả liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe NCT, nhưng hiện nay nhiều quy định trong Luật NCT năm 2009 không còn phù hợp, thậm chí không tương thích với Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2013, 2019. Để phù hợp với nội dung liên quan đến NCT của các Luật khác đang có hiệu lực và khắc phục những hạn chế mà Luật NCT hiện hành chưa đề cập tới, đề nghị Quốc hội cần đưa vào Chương trình xây dựng Luật năm 2021, về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NCT.
2. Chính phủ chỉ đạo tổng kết thực hiện Luật NCT, Chương trình mục tiêu quốc gia về NCT giai đoạn 2012 - 2020. Đánh giá việc thực hiện trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương. Trên cơ sở đó Chính phủ ban hành định hướng chiến lược tổng thể thích ứng với già hóa dân số, xây dựng chương trình hành động về già hóa dân số cho giai đoạn 2021 - 2030.
3. Trong các định hướng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội cần lồng ghép vấn đề NCT cho phù hợp. Đẩy mạnh sự tham gia, phối hợp và tăng cường vai trò của các bộ, ban, ngành, đoàn thể, khu vực tư nhân, các tổ chức xã hội và các bên liên quan trong việc bảo vệ quyền lợi của NCT. Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng và môi trường xã hội để bảo đảm NCT có thể tham gia vào hoạt động kinh tế và xã hội; quan tâm phát triển dịch vụ cho NCT tại cộng đồng, các mô hình câu lạc bộ NCT, đặc biệt câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau theo Quyết định 1533/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; phát triển các trung tâm chăm sóc NCT ban ngày, ngắn hạn tại cộng đồng.
4. Sớm triển khai thực hiện Kết luận 158/KL-TW của Ban Bí thư khóa XII về Hội quần chúng; tạo điều kiện cho các Hội được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, hoạt động thuận lợi, có hiệu quả.
5. Nghiên cứu bổ sung hỗ trợ lao động không có hợp đồng lao động (lao động tự do) để nhóm đối tượng này tham gia bảo hiểm tự nguyện. Phần hỗ trợ của Nhà nước có phân nhóm tuổi, nhóm từ 40 tuổi trở lên có mức hỗ trợ cao hơn để khi sau 60 tuổi họ có chế độ bảo hiểm, bảo đảm cho tuổi già, hạn chế mức độ phụ thuộc vào con cái và xã hội. Hướng tới mỗi NCT đều có thu nhập khi về già từ bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội.
6. Nghiên cứu nâng mức bảo trợ xã hội cho NCT phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của đất nước (hiện nay mức hưởng là 270.000đồng/ tháng cho NCT có đủ 80 tuổi trở lên, không có bảo hiểm xã hội và các khoản trợ cấp khác). Nghiên cứu hỗ trợ NCT thuộc hộ nghèo (từ 60 tuổi đến 79 tuổi) được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng.
7. Để thích ứng với già hóa dân số, cần phát triển và tăng cường quản lí dịch vụ chăm sóc xã hội, nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp công - tư trong cung ứng dịch vụ chăm sóc xã hội. Đặc biệt là khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào cung cấp dịch vụ chăm sóc NCT cũng như gắn kết giữa chăm sóc y tế tại cộng đồng với dịch vụ chăm sóc xã hội chính thức và phi chính thức.
8. Tăng cường công tác truyền thông, thay đổi nhận thức, tạo môi trường phù hợp với xã hội có nhiều NCT, thường xuyên tuyên truyền giáo dục giới trẻ, để xóa bỏ kì thị, phân biệt đối xử và bạo lực đối với NCT… Ngoài ra, cần lưu ý xây dựng cơ sở hạ tầng và môi trường xã hội để đảm bảo NCT có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế và xã hội