Con người dưới cách nhìn của y học cổ truyền (Kì 32)
Sức khỏe 20/05/2021 08:29
1. Kinh túc dương minh vị
a. Cấu trúc đường kinh:
Kinh túc dương minh vị bắt đầu từ cạnh mũi đi lên đến khóe mắt phía trong, sau đó quay ngược lại qua chính giữa phía dưới ổ mắt đi xuống. Đi qua cạnh ngoài của cánh mũi tiến vào lợi trên, rồi đi vòng qua môi, xuống dưới giáo hội với điểm giữa môi dưới (Thừa tương). Sau đó đi men theo cạnh sau phía dưới xương hàm dưới, đi đến phía dưới trước góc hàm (Giáp xã), rồi hướng đi lên tản ra trước tại, đi qua cung gò má ở trước tai, men theo bờ tóc lên đến góc trán (Đầu duy), cuối cùng ở trước trán giao hội với đốc mạch ở huyệt Thần đình.
Mạch nhánh ở trên mặt, từ giữa hàm dưới (Đại nghinh) đi xuống cổ cạnh hầu (Nhân nghinh), đi men theo cạnh hầu tiến vào hõm ức; đi vào trong và xuống dưới qua cơ hoành tới vị và liên hệ với tì tạng.
Mạch nhánh khác ở hõm ức đi thẳng từ chỗ hõm của xương đòn xuống cạnh trong của đầu vú, đi xuống bụng, đoạn ở bụng đi cách rốn 2 thốn, đến phía trên xương mu ở rãnh háng, chỗ huyệt Khí xung.
Mạch nhánh ở bên trong, đi từ miệng dưới của dạ dày đi sâu trong ổ bụng, hướng xuống huyệt Khí xung rồi cùng gặp nhánh ở bên ngoài rồi đi xuống, thẳng đến phía trên đùi ở mặt trước (là huyệt Bễ quan), đi tiếp men theo mặt cao của cơ tứ đầu đùi, xuống qua xương bánh chè, men theo cạnh ngoài của mặt trước xương chày, phía dưới phân bố xuống mu bàn chân, đến cạnh ngoài đầu ngón chân thứ hai.
Một mạch nhánh tách ra từ chỗ dưới xương bánh chè 3 thốn (Túc tam lí) phân ra một nhánh cạnh đi xuống đến cạnh ngoài ngón giữa.
Một mạch nhánh khác ở bàn chân, tách ra từ mu bàn chân (Xung dương) phân ra đi xuống đến cạnh trong đầu ngón cái (Ẩn bạch) để tiếp nối với kinh túc thái âm tì.
Kinh túc dương minh vị gồm có 45 huyệt, hai bên là 90 huyệt. Các huyệt của kinh Vị: Thừa khấp, Tứ bạch, Cự liêu, Địa thương, Đại nghinh, Giáp xa, Hạ quan, Đầu duy, Nhân nghinh, Thủy đột, Khí xá, Khuyết bồn, Khí hộ, Khố phòng, Ốc ế, Ưng song, Nhũ trung, Nhũ căn, Bất dung, Thừa mãn, Lương môn, Quan môn, Thái ất, Hoạt nhục môn, Thiên xu, Ngoại lăng, Đại cự, Thủy đạo, Quy lai, Khí xung, Bễ quan, Phục thỏ, Âm thị, Lương khâu, Độc tị, Túc tam lí, Thượng cự hư, Điền khẩu, Hạ cự hư, Phong long, Giải khê, Xung dương, Hãm cốc, Nội đình, Lệ đoài.
b. Quan hệ của đường kinh với các tạng phủ:
Kinh túc dương minh vị đi từ đầu xuống chân, thuộc về phủ vị, có đường lạc sang tạng tì, có quan hệ trực tiếp với tạng tâm, phủ tiểu trường và đại trường.
c. Chủ trị của đường kinh:
Kinh túc dương minh vị được ứng dụng trong điều trị các chứng như sôi bụng, trướng bụng, nôn mửa, sốt cao, đau dạ dày, chảy máu mũi, liệt mặt, đau hầu họng, đau ngực bụng, đạu tại nơi đường kinh đi qua.
Huyệt vị ở kinh vị ngoài tác dụng chữa bệnh tại chỗ và xung quanh, chủ yếu là chữa bệnh dạ dày và ruột. Ngoài ra, khi cơ thể suy nhược, vị khí kém, đều có thể sử dụng các huyệt của kinh túc dương minh vị để điều trị. Kinh dương minh là kinh nhiều khí và nhiều huyết, chủ của việc nuôi dưỡng các gân, vì vậy nó còn có thể được ứng dụng trong điều trị chứng tê bại, gân co rút.
2. Kinh túc thái dương bàng quang
a. Cấu trúc đường kinh:
Kinh túc thái dương bàng quang bắt đầu từ khoé mắt trong (huyệt Tinh minh) đi lên thẳng trước trán đến sau đỉnh đầu (Bách hội), một nhánh từ đỉnh đầu đi ngược lại đến góc trước tai. Kinh chính đi thẳng từ đỉnh đầu thông vào não rồi trở lại, hướng ra phía sau gáy chia làm hai nhánh.
Nhánh thứ nhất đi theo cạnh trong cơ bả vai dựa theo gần sát cột sống, (cách đều cột sống 1,5 thốn) đi thẳng xuống đến thắt lưng, theo cột sống thắt lưng mà liên lạc vào tạng thận và phủ bàng quang. Từ lưng tiếp tục đi xuống men theo cột sống qua mông, tiến xuống hõm khoeo.
Mạch nhánh thứ hai từ sau gáy cũng đi men theo cột sống, nhưng cách sột sống 3 thốn (cạnh trong xương bả vai) đi xuống qua mông, ven theo phía sau cạnh ngoài xương đùi đi thẳng xuống giao hội với nhánh thứ nhất trong hố khoeo. Từ đây hai nhánh hợp lại, đi qua bụng chân, đi qua phía sau mắt cá ngoài chân, đi dọc theo bờ ngoài của mu chân, đến cạnh ngoài đầu ngón út chân (Chi âm), tiếp nối với kinh túc thiếu âm thận.