Con người dưới cách nhìn của y học cổ truyền (Kì 17)
Sức khỏe 28/01/2021 11:21
Phế nằm ở thượng tiêu, chủ khí, chủ hô hấp, chủ việc tuyên phát và túc giáng, bên ngoài chủ bì mao, khai khiếu ở mũi, phía trên liền với cuống họng. Phế có quan hệ biểu lí với đại trường.
1. Chức năng của tạng Phế
1.1. Phế chủ khí, chủ hô hấp:
Phế là nơi trao đổi khí: Hít thanh khí, thải trọc khí nên nói phế chủ hô hấp.
Phế chủ khí bởi vì phế có liên quan đến tông khí, tông khí được tạo thành do khí của đồ ăn được đưa lên từ tì vị hợp với khí trời do phế đưa vào, sau đó tông khí được đưa vào tâm mạch để đẩy huyết đi toàn thân nuôi dưỡng cơ thể.
Phế khí bình thường thì hô hấp thông suốt, hít thở bình thường. Phế khí hư thì thở ngắn, gấp, tiếng phát ra nhỏ yếu, người mệt mỏi không có sức; khí úng thì làm cho xuyễn tức, ngực tức hoặc đau, khí nghịch thì sinh ho, nặng thì ho ra máu
1.2. Phế chủ tuyên phát và túc giáng:
Tuyên phát: Có nghĩa là thúc đẩy. Sự tuyên phát của phế được gọi tắt là tuyên phế là sự thúc đẩy khí huyết, tân dịch phân bố ra toàn thân, bên trong đi vào các tạng phủ kinh lạc, ngoài đi ra bì mao cơ nhục. Nếu phế khí không tuyên phát sẽ gây ứ trệ và có triệu chứng tức ngực, ngạt mũi, khó thở.
Túc giáng: Là đưa phế khí đi xuống (thuận). Nếu phế khí nghịch lên trên uất tại phế sẽ có triệu chứng khó thở, ho, xuyễn tức.
1.3. Phế chủ bì mao:
Bì mao là phần ngoài cùng của cơ thể, nó bao gồm da, lông, tuyến mồ hôi. Đây cũng là nơi ngoại tà xâm nhập vào cơ thể. Nhờ sự tuyên phát của phế mà chất dinh dưỡng được đem đến đầy đủ cho bì mao. Vệ khí cũng tuyên phát ra bì mao để bảo vệ cơ thể, chống lại sự xâm nhập của ngoại tà. Vì vậy khi có bệnh ở phần biểu thường thấy xuất hiện các triệu chứng ở vệ và phế phối hợp với nhau như ngoại cảm phong hàn có các biểu hiện như sợ gió, sợ lạnh, ngạt mũi, ho,…
Diệp Quế có nói: “Vị trí phế ở cao nhất, tà tất hại phế trước”, “ôn tà vào phần trên, đầu tiên là vào phế”. Cho nên ngoại cảm lục dâm thường trước là phạm vào phế, nhân đó mà xuất hiện chứng ngoại cảm. Nếu phế khí hư yếu không tuyên phát ra bì mao làm da lông khô ráp, lưa thưa, dẫn tới cơ năng bảo vệ của bì mao bị giảm cho nên dễ bị cảm ngoại tà.
1.4. Phế chủ thông điều thủy đạo:
Nhờ tác dụng tuyên phát và túc giáng của phế mà nước trong cơ thể được bài tiết bằng đường mồ hôi, hơi thở, nhị tiện nhưng chủ yếu bằng đường nước tiểu.
Phế khí giúp đưa nước tiểu xuống thận, tại thận nước tiểu được khí hoá 1 phần đưa xuống bàng quang để bài tiết ra ngoài. Phế khí không tuyên thông thì tiểu tiện không lợi. Trên lâm sàng bệnh nhân có biểu hiện phù thũng do phong thủy (viêm cầu thận do lạnh) được chữa bằng phương pháp tuyên phế lợi niệu.
1.5. Phế khai khiếu ra mũi, thông với họng, chủ về tiếng nói
Phế khai khiếu ra mũi: Mũi là nơi thở của phế, để thở và ngửi thông qua tác dụng của phế khí. Phế khí bình thường thì sự hô hấp điều hòa, mũi có thể hít thở và ngửi mùi bình thường. Nếu phế khí bị trở ngại như cảm ngoại tà xâm nhập thì ngạt mũi, chảy nước mũi, cánh mũi phập phồng, nước mũi chảy ra.
Phế thông với họng, chủ tiếng nói: Phế hư thì mất tiếng, bị hàn thì họng ngứa tiếng khàn; bị nhiệt thì họng đau, họng sưng; đàm trở thì họng như kéo cưa, hen xuyễn.
2. Quan hệ giữa Phế và các tạng phủ khác trong cơ thể
Phế với đại trường là quan hệ biểu lí, với tì thận là quan hệ tương sinh, với tâm can là quan hệ tương khắc.
2.1. Phế có quan hệ biểu lí với Đại trường
Đại trường có chức năng chứa đựng và bài tiết chất cặn bã của đồ ăn. Phế khí túc giáng thì công năng của Đại trường bình thường, đại tiện dễ dàng. Nếu đại tiện tích trệ thì cũng ảnh hưởng ngược lại sự túc giáng của Phế khí.
Khi trị liệu trên lâm sàng, có khi chữa bệnh của Phế lại chữa từ Đại trường. Có khi chữa bệnh Đại trường lại kèm chữa bệnh của Phế. Như chữa bệnh đại tiện khó, ngoài việc dùng thuốc thông tiện ra, còn dùng cả thuốc nhuận Phế hoặc tuyên Phế hiệu quả sẽ tốt hơn. Có một số chứng thực nhiệt ở Phế, ngoài việc thanh Phế, còn cần thông đại tiện. Kết hợp cả hai việc này thường thu được kết quả rất tốt.