Cần xem xét lại một cách khách quan và đúng pháp luật
Pháp luật - Bạn đọc 02/08/2022 09:12
Nội dung vụ việc
Phản ánh tới Tạp chí Người cao tuổi, 6 hộ dân, gồm: Bà Dương Thị Thu (có bố đẻ là cụ Dương Văn Phú), ấp Bình Đông, xã Bình An; ông Danh Ụ (có bố đẻ là cụ Danh Xựng), ấp Hòn Chông, xã Bình An; bà Nguyễn Anh Đào (có mẹ là cụ Thái Thị Di), ấp Hòn Chông, xã Bình An; ông Trương Văn Trình (có mẹ để là cụ Ong Kim Hòa), ấp Bình Đông, xã Bình An; bà Dương Thị Hoàng (có bố đẻ là cụ Dương Văn Tiếu), ấp Bình Đông, xã Bình An; bà Thị Kỷ (có bố đẻ là cụ Danh Tên), tổ 4, ấp Bãi Giếng, xã Bình An, huyện Kiên Lương cho biết: Cả 6 hộ dân chúng tôi đều là người Việt gốc Khmer.Từ những năm 60 thế kỉ trước, bố mẹ của họ được chính quyền chế độ cũ cho vào khai hoang, trồng trọt, chăn nuôi ở khu vực hang Cây Ớt, ấp Ba Núi, dọc theo Tỉnh lộ 11, xã Bình Trị (nay là xã Bình An). Trong quá trình khai hoang để phát triển trang trại, các hộ dân sử dụng đất ổn định, không tranh chấp với ai.
Vị trí mảnh đất đang tranh chấp |
Từ năm 1971 đến năm 1973, cả 6 hộ gia đình trên được chế độ cũ cấp Chứng thư cấp quyền sở hữu (Chứng khoán), có vị trí, diện tích, với tổng diện tích trên sổ của 6 hộ gia đình là 16ha, nhưng trên thực tế đất rộng hơn rất nhiều. Đất của 6 hộ gia đình liền kề nhau, gần 60 năm qua mọi hoạt động canh tác được các hộ duy trì, người trồng dừa nước, nuôi tôm, cấy lúa,…
Đến năm 1985, lãnh đạo xã Bình Trị (nay là xã Bình An) do ông Phan Văn Dậu, Bí thư Đảng ủy và ông Phạm Văn Long, Chủ tịch UBND xã có đến từng nhà vận động cho Nhà nước mượn số ruộng đất nói trên để thành lập Xí nghiệp muối Dương Hòa, nếu có kết quả, Nhà nước sẽ trả tiền đất cho các hộ (thực chất chỉ nói miệng với nhau, không có biên bản).
Các hộ dân phản ánh về sự việc |
Đến năm 1989 (sau 4 năm hoạt động), Xí nghiệp sản xuất muối thất bại, giải thể, các hộ dân lại tiếp tục vào vị trí đất của mình để tiến hành cải tạo và canh tác, sử dụng liên tục.
Dân không có đất sản xuất, còn đất thu hồi của dân lại bỏ hoang
Năm 1999, UBND huyện Kiên Lương ra quyết định thu hồi các thửa đất nói trên, với nội dung: “Thu hồi đất bao chiếm trái phép ở xã Bình An”. UBND huyện Kiên Lương giao cho UBND xã Bình An quản lí, đồng thời có kế hoạch sử dụng đất và làm đề nghị để UBND huyện Kiên Lương xem xét giao cấp lại cho các hộ dân có yêu cầu sử dụng theo các quy định của pháp luật.
Ông La Văn Kệ (xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang) xác nhận sự việc, ông đi cùng ông Phan Văn Dậu, Bí thư và ông Phạm Văn Long, Chủ tịch UBND xã có đến từng nhà vận động các hộ dân cho Xí nghiệp muối Dương Hòa mượn đất |
Ngày 6/2/2002, UBND tỉnh Kiên Giang ban hành Quyết định số 468/QĐ-UBND về việc giao cho UBND xã Bình An để làm quỹ đất công ích 5% của xã, với tổng diện tích 96,9ha (gồm: Khu 1, diện tích 7,8ha; khu 2, diện tích 62,5ha; khu 3, diện tích 26,6ha), trong đó có diện tích đất của 6 hộ dân nêu trên.
Ngày 18/11/2005, UBND tỉnh Kiên Giang ban hành Quyết định số 2275/QĐ-UB về việc thu hồi đất, giao cho UBND huyện Kiên Lương quản lí để thực hiện quy hoạch xây dựng nhà máy nung Clinker có công suất 450.000tấn/năm, tại xã Bình An, với diện tích 981.355,3m2, gồm đất của 23 hộ dân (trong đó có đất của 6 hộ nêu trên) và diện tích 194.798,2m2 đất quỹ công ích 5% của UBND xã Bình An.
Ngày 21/1/2008, UBND tỉnh Kiên Giang ban hành Quyết định số 156/QĐ-UBND về việc cho Công ty CP Lanh - Ke Hà Tiên thuê đất để sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh (xây dựng nhà máy Clinker Hà Tiên) và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, với diện tích 995.994,6m2.
Bà Trần Thị Hoàn (xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang) xác nhận về việc trước khi bị thu hồi, đất của các hộ dân vẫn sử dụng liên tục, đất không bị bỏ hoang |
Cả 6 hộ dân cho biết thêm, sau khi bị UBND huyện Kiên Lương thu hồi đất, các hộ dân không được bồi thường, hỗ trợ theo đúng quy định của pháp luật, nên đã làm đơn khiếu nại từ đó đến nay. Đất của các hộ dân có nguồn gốc do ông cha khai hoang, phục hóa từ những năm 60 thế kỉ trước để lại, các hộ dân sử dụng liên tục, không lấn chiếm, cũng như không bỏ hoang, không giống như các văn bản trả lời khiếu nại của UBND tỉnh Kiên Giang và UBND huyện Kiên Lương.
Ngoài ra, sau khi có quyết định thu hồi đất của UBND huyện Kiên Lương, các hộ dân vẫn ra sử dụng đất, nhưng đều bị chính quyền địa phương lập biên bản, xử phạt vi phạm hành chính, không cho sử dụng, với lí do, các hộ dân bao chiếm đất trái phép.
Bà Võ Thị Kim Hương (xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang) xác nhận, trước khi bị thu hồi, đất của các hộ dân sử dụng liên tục, không bị bỏ hoang |
Điều lạ là, mặc dù đất của gia đình bà Nguyễn Anh Đào (có mẹ là Thái Thị Di) cũng bị thu hồi giống 5 hộ gia đình nêu trên, thế nhưng, ngày 8/4/2022, tại buổi làm việc trực tiếp với bà Nguyễn Thị Kim Loan (người được bà Đào ủy quyền) về việc trao đổi một số nội dung có liên quan đến khu đất giao cho Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh để xây dựng Đồn Biên phòng cửa khẩu cảng Hòn Chông, tại ấp Ba Núi, xã Bình An.
Công văn trả lời của ông Lâm Minh Thành, Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang về việc thông tin kết quả rà soát đơn khiếu nại của các hộ dân |
Tại biên bản lại nêu: “Vận động gia đình các anh chị em bà Nguyễn Anh Đào bàn giao toàn bộ diện tích đất 33.897,2m2 (trong đó có 20.569,0m2 nằm trong khu đất giao cho Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Kiên Giang) để xây dựng Đồn Biên phòng cửa khẩu cảng Hòn Chông; nếu gia đình có nhu cầu về đất sản xuất thì làm đơn gửi UBND huyện để được xem xét theo quy định; theo hướng sẽ ghi nhận và đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, hoán đổi đất tại vị trí quỹ đất 5% còn lại của xã…”.
Khi thu hồi đất của 6 hộ dân nêu trên, đến nay, các hộ dân không có đất để sản xuất, còn đất thu hồi để thực hiện Dự án xây dựng nhà máy Clinker Hà Tiên lại không được thực hiện, đất bị bỏ hoang, gây lãng phí.
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các hộ dân, tránh khiếu kiện kéo dài, nên chăng các cơ quan chức năng của tỉnh kiên Giang cần xem xét vụ việc một cách khách quan và đúng pháp luật.