Tương truyền, đình Đầm Hà được xây dựng từ thế kỉ XVII (thời Hậu Lê, tiền Nguyễn) sau nhiều biến cố thăng trầm của thời gian và lịch sử, đến đầu thế kỉ XIX, đình bị quân xâm lược phá hoại.
Cuối thế kỉ XIX, Nhân dân trong làng, xã góp tiền xây dựng lại với quy mô lớn nhất vùng, diện tích trên 2 ha, gồm 7 gian tiền đình và 3 gian hậu cung (theo sử liệu, tiền đình chỉ có 5 gian, nhưng cuối năm 2008, khi san gạt nền để xây dựng thì lộ ra móng 7 gian). Đình được xây bằng gạch đá gạo, có kích thước: 0,25 x 0,25 x 0,40 m. Làng huy động toàn Tổng Đầm Hà mỗi suất đinh từ 18 tuổi trở lên phải đóng góp một viên đá gạo để xây dựng đình. Hình dáng mái đình cũng tương tự như nhiều mái đình khác thường thấy ở vùng quê Việt Nam, lợp ngói âm dương, màu tro, kích thước khoảng 25 x25 cm, một hàng ngửa, một hàng úp. Cột bằng gỗ lim đường kính khoảng 50-60 cm, kê trên một tảng đá lớn. Đình Đầm Hà do thợ từ Thanh Hóa xây dựng. Năm 1943, đình được trùng tu lại rộng rãi khang trang, bề thế.
Cảnh trong Lễ hội đình Đầm Hà
Hằng năm, đình đều tổ chức Lễ hội Xuân (từ 15 đến 20 tháng Giêng). Ngoài ra, dân làng còn duy trì việc tế lễ theo lệ làng và dành để bàn những công việc hệ trọng của làng. Đặc biệt, cuộc bầu cử chính quyền cấp huyện đầu tiên và cuộc bầu cử Quốc hội nước Việt Nam đầu tiên (năm 1946) được tổ chức tại đình Đầm Hà. Lần giở các thư tịch Hán Nôm cổ và các đạo sắc phong, bài văn tế thì đình Đầm Hà hiện thờ 7 vị thần: Không Lộ, Giác Hải, Quý Minh, Thái Lệ, Đại Càn, Quốc Gia, Nam Hải. Trong đó, Không Lộ, Giác Hải là 2 vị thiền sư thời Lý, rất tài giỏi, xuất thân từ gia đình làng chài. Bởi thế, một số vùng ven biển ở Quảng Ninh như Quan Lạn (Vân Đồn), Trà Cổ (Móng Cái) và Đầm Hà..., Nhân dân tôn các vị này làm Thành hoàng làng và thờ trong các đình, đền, miếu...
Ngoài ra, đình Đầm Hà còn thờ 12 vị tiền thân của dòng họ Hoàng và dòng họ Phan, sinh sống lâu năm ở vùng đất này và 14 vị hậu thần của 9 dòng họ. Lễ hội đình Đầm Hà xưa kia được tổ chức linh đình từ 15 đến 20 tháng Giêng âm lịch hằng năm, gắn với các phong tục tập quán của dân làng. Ngoài các nghi thức rước tế Thành hoàng như bao lễ hội khác, lễ hội đình Đầm Hà còn có nhiều nét độc đáo riêng biệt. Đó là sự kết hợp các điệu múa trong lúc tế, chạy cờ xung quanh đình, miếu trong lúc rước, hát ca trù, hát xướng đào mừng Thành hoàng về dự hội...
Người dân Đầm Hà làm ăn sinh sống ở xa hay ở tại quê hương nếu được thăng quan tiến chức hay đỗ sơ học yếu lược (lớp 4 thời xưa), cho dù rất bận cũng phải về dự lễ Cáo trạng trong ngày hội đình. Đây là hình thức khuyến học, khuyến tài được dân làng Đầm Hà quy định trong lệ làng từ rất sớm. Các nghi thức trên rất riêng biệt và ít thấy trong các lễ hội tín ngưỡng dân gian ở Quảng Ninh. Từ năm 1957, do nhiều nguyên nhân, lễ hội đình Đầm Hà không được tổ chức nữa. Năm 1963, đình Đầm Hà cũng như nhiều ngôi đình khác trong huyện bị dỡ bỏ, những hình ảnh về đình và lễ hội đình Đầm Hà chỉ còn lưu lại trong trí nhớ của lớp NCT. Bà Đặng Thị Tự, thôn Trại giữa, cho biết: “Từ nhỏ, tôi được theo mẹ và các chị đi xem hát tế lễ ở đình. Ngôi đình rất linh thiêng. Người dân hay du khách thập phương đến cầu xin việc gì đều được. Vào những ngày hội của đình, thường tổ chức 5 ngày 4 đêm để tế lễ thần rất trang trọng. Cùng với đó là những canh hát múa nhà tơ, hát múa cửa đình trang trọng trong những đêm diễn ra lễ hội”.
Năm 2008, đình Đầm Hà được xây dựng lại. Năm 2011, đình được UBND tỉnh Quảng Ninh xếp hạng và công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Ông Chu Xuân Đỗ, Ban Quản lí đình Đầm Hà cho biết: “Di tích đình Đầm Hà không chỉ đánh dấu một thời kì lịch sử của người dân Việt trong quá trình dựng nước và giữ nước, mà còn cho thấy niềm tự hào về một truyền thống anh dũng kiên cường bảo vệ cửa biển, đất nước của cha ông từ hàng trăm năm qua”.
Long Vũ