11:17 | 11/02/2022 In bài biết
Không biết vì sao loại hoa này lại mang tên “tầm xuân”, phải chăng là vì hoa cứ tìm (tầm) mùa Xuân mà khai bông khoe sắc. Trong dân gian, tầm xuân còn có nhiều tên khác như thích hoa, bạch tàn hoa, thích mi, ngưu cức, tường mi, thập tỉ muội, thất tỉ muội, dã tường vi, hoà thượng đầu..., tên khoa học là Rosa multiflora Thunb, thuộc họ Hoa Hồng Rosaceae. Tầm xuân mọc thành bụi, lá kép lông chim, thân nhiều gai, hoa 5 cánh nhỏ bé nhưng khá đẹp với nhiều màu sắc khác nhau như hồng, đỏ, trắng, vàng...
Thực ra, tầm xuân là loại cây mọc hoang dại, nhưng vì hoa tuy mỏng manh mà diễm lệ nên ở một số nơi người ta còn trồng để làm cảnh. Hơn nữa, trong y học cổ truyền phương Đông, tầm xuân còn là một vị thuốc khá độc đáo. Trong sách Bản thảo cương mục, nhà dược học vĩ đại Lí Thời Trân đã bàn đến tính vị, công dụng chữa bệnh của tầm xuân và Ông cho rằng loại hoa có màu trắng là tốt hơn cả. Dân gian thường thu hái hoa, quả, cành và rễ tươi hoặc khô để làm thuốc. Theo quan niệm của y học cổ truyền, tầm xuân có công dụng thanh nhiệt lợi thấp, trừ phong, hoạt huyết chỉ huyết, giải độc giảm đau, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như hoàng đản, thuỷ thũng, lị tật, tiêu khát, bĩ tích, đái dầm ở trẻ em... Tuỳ theo từng bộ phận của tầm xuân mà tác dụng chữa bệnh cũng có những đặc điểm khác nhau.
Hoa
Thường được thu hái vào mùa Xuân và mùa hạ, dùng để chữa các chứng bệnh như: (1) Cảm nắng, cảm nóng vào mùa hạ có các triệu chứng tức ngực, buồn nôn và nôn, có thể có nôn ra máu, môi khô miệng khát, chán ăn, mệt mỏi dùng hoa tầm xuân 3 - 9g sắc uống hoặc hoa tầm xuân 5g, thiên hoa phấn 10g, sinh thạch cao 30g, mạch môn 15g, sắc uống hoặc hoa tầm xuân 10g và hoa đậu ván trắng 10, hãm với nước sôi, chế thêm một chút đường phèn, uống thay trà (2) Nôn ra máu và chảy máu cam dùng hoa tầm xuân 6g, bạch cập 15g và rễ cỏ tranh 30g, sắc uống. (3) Ngược tật (sốt rét) dùng hoa tầm xuân sắc uống thay trà. (4) Bướu tuyến giáp dùng hoa tầm xuân 5g, hoa hậuphác 5g, hoa chỉ xác 5g và hoa hồng 5g, sắc uống. (5) Đái đường và viêm loét niêm mạc miệng mạn tính dùng sương đọng trên hoa tầm xuân vào buổi sớm 30 ml pha chut nước ấm uống hằng ngày.
Lá
Được thu hái quanh năm, có tác dụng sinh cơ và làm liền nhanh vết thương. Ví dụ: (1) Ung nhọt làm mủ chưa loét dùng lá tầm xuân sấy khô tán bột, trộn với mật ong và dấm đắp lên tổn thương. (2) Viêm loét chi dưới dùng lá tầm xuân không kể liều lượng nấu nước rửa vết thương. (3) Nhọt độc sưng nề nhiều dùng lá và cành non tầm xuân rửa sạch, giã nát với một chút muối ăn rồi đắp lên tổn thương.
Rễ
Vị đắng hơi sáp, tính bình, có công dụng thanh nhiệt lợi thấp, trừ phong, hoạt huyết và giải độc, được dùng để chữa nhiều chứng bệnh như: (1) Liệt mặt và di chứng liệt nửa người do cao huyết áp dùng rễ tầm xuân 15 - 30g sắc uống. (2) Chảy máu cam mạn tính dùng vỏ rễ tầm xuân 60g hầm với thịt vịt già ăn. (3) Ghẻ về mùa hè dùng rễ tầm xuân tươi sắc uống thay trà. (4) Đau răng và viêm loét miệng dùng rễ tầm xuân sắc uống hoặc ngậm. (5) Viêm khớp, liệt bại nửa người, kinh nguyệt không đều, khí hư và tiểu tiện không tự chủ dùng rễ tầm xuân 15 - 30g sắc uống. (6) Hoàng đản (vàng da do nhiều nguyên nhân) dùng rễ tầm xuân 15 - 24g hầm với 60g thịt lợn nạc, chế thêm một chút rượu vang, chia ăn vài lần trong ngày. (7) Đái dầm trẻ em, người già đi tiểu đêm nhiều lần dùng rễ tầm xuân 30g sắc uống hoặc hầm với thịt lợn ăn. (8) Phế ung (áp xe phổi) dùng rễ tầm xuân 15g, hạt bí đao 30g, ý dĩ 30g, sắc uống. (9) Thương tổn do trật đả và trĩ xuất huyết dùng rễ tầm xuân tươi 30g rửa sạch, giã vắt nước cốt uống. (10) Vết thương chảy máu dùng rễ tầm xuân lượng vừa đủ, sấy khô tán bột rắc vào tổn thương, cũng có thể trộn với dầu vừng để đắp. (11) Rong huyết dùng rễ tầm xuân 30g, ngải cứu già đốt tồn tính 10g, cỏ nhọ nồi 30g, tiên hạc thảo 30g, sắc uống hằng ngày. (12) Bỏng dùng rễ tầm xuân tươi nấu nước rửa hằng ngày hoặc bột rễ tầm xuân trộn với dầu vừng đắp.
Theo kết quả nghiên cứu dược lí học hiện đại, thành phần chủ yếu của rễ tầm xuân có anpha - Sitosterol, beta - Dyhydroxy ursolic acid, Triterpenic acid, Cachoa extract... Dịch chiết có tác dụng chống đông máu, bảo hộ cơ tim, làm giảm cholesterol, triglycerid và lipoprotein huyết thanh.
Quả
Vị chua, tính ấm, thu hái vào lúc chín, sấy hoặc phơi khô làm thuốc, có công dụng lợi tiểu thanh nhiệt, hoạt huyết giải độc. Được dùng để chữa các chứng bệnh như: (1) Phù do viêm thận dùng quả tầm xuân 3 - 6g, hồng táo 3 quả sắc uống hoặc quả tầm xuân 20g, đại hoàng 3g, sắc chia uống 3 lần trong ngày. (2) Tiểu tiện khó khăn dùng quả tầm xuân 10g, mã đề 30g và biển súc 30g, sắc uống. (3) Đau bụng khi hành kinh dùng quả tầm xuân 120g sắc lấy nước hoà thêm một chút đường và rượu vang uống ấm. (4) Táo bón dùng quả tầm xuân 10g, đại hoàng 3g, sắc uống.
Sự tích hoa tầm xuân là một câu chuyện rất cảm động về tình cảm chị em: Ngày xưa, có hai chị em mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Hằng ngày cô chị phải vào rừng chặt củi bán lấy tiền nuôi em. Một hôm, nhân lúc cô chị đi vắng, một con quỷ đã bắt cậu em, cho vào lồng và treo lên cành cây cao được bao quanh một loại dây leo có rất nhiều gai. Cô chị vì quá thương em nên chẳng quản gai sắc cào nát da thịt đã dũng cảm bám dây leo lên cứu cậu em trai của mình. Những giọt máu đào của cô chị rơi đến đâu thì tự biến thành những chùm hoa làm đẹp cho dây leo đến đấy. Có lẽ vì vậy, người đời sau còn gọi hoa tầm xuân là hoa Chị Em (Tỉ muội). Biết được điều này, người ta hẳn đã quý tầm xuân vì giá trị làm thuốc mà lại còn thêm yêu loài hoa này vì vẻ đẹp của giá trị tinh thần
BS Hoàng Khánh Toàn
(Nguyên Chủ nhiệm Khoa YHCT Bệnh viện Trung ương Quân đội 108)
TẠP CHÍ NGÀY MỚI ONLINE
Hội Người cao tuổi Việt Nam
Tổng biên tập: Lê Quang
Giấy phép hoạt động báo chí số 47/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 5/2/2020.
Liên hệ: Tòa soạn
Đường dẫn bài viết: https://ngaymoionline.com.vn/cay-tam-xuan-lam-thuoc-30591.html